Bài văn hay THPTNGỮ VĂN 10

Tổng hợp những đề văn hay nhất về “Truyện Kiều” và hướng dẫn làm bài

Truyện Kiều và các trích đoạn Truyện Kiều là một trong những phần học quan trọng nhất trong chương trình học Ngữ Văn 10. Dưới đây là những đề văn hay thường gặp trong các đề thi, đề kiểm tra. VHT đã liệt kê đề kèm hướng dẫn làm bài cụ thể:

☘️ Tổng hợp những đề văn hay nhất về “Truyện Kiều” và hướng dẫn làm bài Đề 1 :

“Có thể nói thiên nhiên trong Truyện Kiều cũng là một nhân vật, một nhân vật thường kín đáo, lặng lẽ nhưng không mấy khi không có mặt và luôn luôn thấm đượm tình người.” (Hoài Thanh)
Bằng những hiểu biết của em về các đoạn trích đã học trong Truyện Kiều, hãy làm rõ ý kiến trên.

❤ Tổng hợp những đề văn hay nhất về “Truyện Kiều” và hướng dẫn làm bài Gợi ý bài làm

1. Nêu vấn đề nghị luận, trích dẫn ý kiến.
2. Giải thích ý kiến:
Nói rằng: “…thiên nhiên trong Truyện Kiều cũng là một nhân vật, một nhân vật thường kín đáo, lặng lẽ nhưng không mấy khi không có mặt và luôn luôn thấm đượm tình người” có nghĩa là:
Nhà phê bình Hoài Thanh muốn nói đến sự có mặt của thiên nhiên xuyên suốt, chân thực, sinh động và ấn tượng với bạn đọc như những gì Nguyễn Du xây dựng về con người…
Điều đó có nghĩa thiên nhiên là đối tượng thứ nhất, có vẻ đẹp tự thân, hiện lên chân thực, có hồn, thể hiện tình yêu cái đẹp và tạo vật của thi hào Nguyễn Du… Thiên nhiên còn là đối tượng để Nguyễn Du ngụ tình…
=> Nguyễn Du đã thể hiện tình yêu thắm thiết với thiên nhiên, tạo vật và qua thiên nhiên, thể hiện tình yêu thắm thiết với con người, cuộc sống.
3. Chứng minh:
* Thiên nhiên – một thế giới tuyệt đẹp hiện lên trong Truyện Kiều, được nhìn qua tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, thấm đượm yêu thương của Nguyễn Du:
Đó là cảnh buổi sáng mùa xuân đẹp đẽ, tinh khôi, tràn đầy sức sống hay khung cảnh hoàng hôn thật đẹp, thật thanh khiết nhưng phảng phất buồn trong “Cảnh ngày xuân”.
Đó là bức tranh thiên nhiên mênh mông, hoang vắng, rợn ngợp nơi lầu Ngưng Bích trong “Kiều ở lầu Ngưng Bích”
(HS cần chọn lựa dẫn chứng tiêu biểu để phân tích, tránh sa vào liệt kê dẫn chứng.)
=> Có thể nói, ngòi bút của Nguyễn Du rất tinh tế khi tả cảnh. Khi miêu tả, bao giờ Nguyễn Du cũng nắm được cái thần của cảnh với những nét đặc trưng riêng => Qua cách miêu tả thiên nhiên, Nguyễn Du cho thấy một tâm hồn thiết tha yêu thiên nhiên, một tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, tài hoa… => Sáng tác của Nguyễn Du đã hướng người đọc mở rộng lòng mình với tạo hoá, với cái đẹp…
* Thiên nhiên còn là đối tượng để Nguyễn Du bày tỏ tình cảm với con người, thế nên thiên nhiên ấy thấm đượm tình người:
Bức tranh mùa xuân là xúc cảm đẹp của nội tâm hai nàng Kiều và cũng là ước vọng của Nguyễn Du về tuổi trẻ, hạnh phúc, sự bình an. (Phân tích làm rõ cách Nguyễn Du tả hình ảnh chim én, hình ảnh cỏ non, hình ảnh hoa lê trắng, cảnh lễ hội…, nỗi buồn tan cuộc, cõi lòng vấn vương…=> tất cả được tái hiện một cách đặc biệt gợi cảm, thấm thía qua đảo ngữ, qua dùng từ láy, qua cách chấm phá, điểm xuyết…)
Bức tranh thiên nhiên nơi lầu Ngưng Bích hoang vắng, rợn ngợp hòa với lòng người cô quạnh, tủi thẹn, bẽ bàng. Những non xa, trăng gần; những cát vàng, bụi hồng, cồn nọ không làm nên vẻ đẹp của lầu Ngưng Bích mà đó là không gian mang tính nghệ thuật, làm nổi bật sự cô đơn tuyệt đối của Kiều.
Bức tranh đầy ám ảnh, thấp thỏm, lo âu ở 8 câu cuối trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là sự đồng cảm cùng nàng Kiều bé nhỏ, cô đơn, hãi hùng, kinh sợ trước sóng gió cuộc đời…
=>Tả cảnh ngụ tình là một trong những bút pháp nghệ thuật quen thuộc và hiệu quả của các nhà văn, nhà thơ từ xưa tới nay. Những bức tranh thiên nhiên trong Truyện Kiều trở thành đối tượng để Nguyễn Du miêu tả và khắc họa số phận, tính cách, nhất là nội tâm nhân vật, khiến cho nhân vật của ông hiện lên thật sinh động, chân thực, đem đến sự đồng cảm sâu sắc…
4. Đánh giá:
=> Thiên nhiên trong “Truyện Kiều” trở thành nhân vật bên cạnh con người và hài hòa với nội tâm con người
Thiên nhiên luôn luôn có mặt, trở thành đối tượng góp phần thể hiện sâu sắc những nghĩ suy của Nguyễn Du về con người, đồng thời thể hiện sâu sắc bút pháp nghệ thuật của tác giả…
=> Cho thấy tâm hồn yêu thiên nhiên tha thiết và sự tài hoa, tinh tế của ngòi bút Nguyễn Du => Ngòi bút Nguyễn Du đã đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật tả cảnh ngụ tình trong nền thơ ca dân tộc…
5. Khẳng định vấn đề nghị luận
=> Khẳng định tài năng của Nguyễn Du và thành công của “Truyện Kiều”.

☘️ Tổng hợp những đề văn hay nhất về “Truyện Kiều” và hướng dẫn làm bài Đề 2 :

Khi bàn đến ngôn ngữ Truyện Kiều, trong bài Nguyễn Du, một nghệ sĩ lớn, Hoài Thanh có viết:
“Người đọc xưa nay vẫn xem truyện Kiều như một hòn ngọc quý cơ hồ không thể thay đổi, thêm bớt một tí gì, như một tiếng đàn lạ gần như không một lần nào lỡ nhịp ngang cung”.
Anh/chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy cho thấy tài năng ngôn ngữ của Nguyễn Du qua một số câu thơ trong Truyện Kiều.

❤ Tổng hợp những đề văn hay nhất về “Truyện Kiều” và hướng dẫn làm bài Gợi ý đáp án :

I. Mở bài:

– Giới thiệu, dẫn dắt vấn đề

– Trích dẫn ý kiến: “Người đọc xưa nay vẫn xem Truyện Kiều như một hòn ngọc quý cơ hồ không thể thay đổi, thêm bớt một tí gì, như một tiếng đàn lạ gần như không một lần lỡ nhịp ngang cung“.

II. Thân bài

1. Giải thích ý kiến của Hoài Thanh

a. Giải thích các hình ảnh so sánh

– “Hòn ngọc quý” cơ hồ không thể thay đổi thêm bớt: ngôn ngữ “Truyện Kiều” đẹp đẽ đến mức hoàn thiện.

– “Tiếng đàn lạ gần như không một lần lỡ nhịp ngang cung”: ngôn ngữ “Truyện Kiều” phong phú, chính xác, sáng tạo, đầy biến hoá.

b. Hoài Thanh đánh giá rất cao về ngôn ngữ “Truyện Kiều”, về tài năng Nguyễn Du qua cách diễn đạt giàu hình ảnh bằng nghệ thuật so sánh: Nguyễn Du là bậc thầy về ngôn ngữ thơ ca.

– Ngôn ngữ vừa được chọn lọc một cách chính xác đến mức không thể thay đổi, thêm bớt, vừa gọt giũa hoàn thiện đến mức như những hòn ngọc quí.
– Ngôn ngữ Truyện Kiều phong phú, sáng tạo như “tiếng đàn lạ” và thật đặc biệt “lạ” nhưng không có trường hợp nào vụng về như “tiếng đàn lỡ nhịp ngang cung”
2. Chứng minh tài sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Du trong Truyện Kiều
(chọn một số dẫn chứng phân tích để chứng minh )

Truyện Kiều” có nhiều con người, nhiều sự kiện, nhiều cảnh vật, nhiều tâm trạng khác nhau, thậm chí đối lập lẫn nhau, nhưng Nguyễn Du có đầy đủ vốn liếng ngôn ngữ để biểu đạt con người, sự kiện, tâm trạng

a. Tả người

– Nghệ thuật khắc hoạ tính cách nhân vật qua vài nét miêu tả ngoại hình, lời nói… của Thuý Vân, Thuý Kiều, Mã Giám Sinh, Hoạn Thư, Từ Hải.

– Tả theo bút pháp ước lệ tượng trưng và bút pháp cụ thể hóa

b. Tả cảnh: tả cảnh thiên nhiên

c. Tả tâm trạng

– Nghệ thuật miêu tả tâm trạng Thuý Kiều: nhớ người yêu, nhớ cha mẹ.

d. Những điểm tinh vi tế nhị của ánh trăng, cảnh chiều, lòng người,… trong từng hoàn cảnh, tình huống.

3. Lí giải nguyên nhân thành công của Nguyễn Du

a. Nguyễn Du đã kế thừa, phát huy những khuynh hướng sáng tạo ngôn ngữ khác biệt

– Tiếp tục kế thừa ngôn ngữ văn học dân gian, đặc biệt là thành ngữ, tục ngữ và ca dao.

– Tiếp nhận ngôn ngữ văn học nước ngoài, từ hệ thống thuật ngữ, khái niệm triết học của Lão – Trang, Phật, Nho đến nguồn điển cố, thi liệu giàu có, phong phú của văn học Trung Quốc.

– Dù tiếp thu từ truyền thống hay từ ngoại lai, Nguyễn Du luôn có tính sáng tạo độc đáo.

b. Tài năng ngôn ngữ của Nguyễn Du qua quá trình học tập trau dồi.

Với sự học hỏi và sáng tạo độc đáo của Nguyễn Du, ngôn ngữ Truyện Kiều mang phong cách của một cá tính nghệ thuật, đưa Nguyễn Du lên vị trí bậc thầy trong ngôn ngữ thơ ca cổ điển, đồng thời để lại cho ngày nay nhiều bài học quý giá trong vận dụng và sáng tạo nghệ thuật nói chung và ngôn ngữ nói riêng.

III. Kết bài:

– Hàng trăm năm qua Truyện Kiều đã sống chan hoà trong đời sống của toàn dân tộc, chinh phục được rộng rãi tình cảm của đông đảo người đọc bởi nội dung phong phú và sâu sắc, chứa đựng tinh hoa của ngôn ngữ dân tộc.

☘️ Tổng hợp những đề văn hay nhất về “Truyện Kiều” và hướng dẫn làm bài Đề 3 :

Nhận xét về Truyện Kiều, Mộng Liên Đường chủ nhân nói:
Tố Như dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả cảnh đã hệt, đàm tình đã thiết, nếu không phải con mắt trông thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời thì không tài nào có được bút lực ấy.
Anh /chị hãy bình luận ý kiến trên.

❤ Tổng hợp những đề văn hay nhất về “Truyện Kiều” và hướng dẫn làm bài Gơi ý đáp án :

1. Giải thích
– Lời bàn của Mộng Liên Đường đã nêu được một cách khái quát nhất tài năng sáng tạo của Nguyễn Du cũng toàn bộ giá trị của tác phẩm Truyện Kiều. Truyện Kiều –có thể coi là “đất dụng võ” của Nguyễn Du. Người ta có thể bắt gặp trong Truyện Kiều cả sự “dụng công đã khổ”, đó là sự công phu, tâm huyết của Nguyễn Du, “tự sự đã khéo, tả cảnh đã hệt, đàm tình đã thiết” là tài năng nghệ thuật ở mọi phương diện đều đạt đến độ xuất sắc. Và hiển hiện trong mỗi lời văn câu chữ là “con mắt trông thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời”, đó là cách nhìn có tầm bao quát rộng lớn, mang tầm tư tưởng triết học. Và một khi đã có con mắt ấy thì sẽ có tấm lòng lưu luyến, lo lắng, đầy yêu thương không chỉ dừng lại ở một lớp người, một thời đại mà trải muôn người, ở muôn đời.
– Lời bàn của Mông Liên Đường là lời khẳng định hùng hồn nhất và cũng là minh chứng rõ ràng nhất cho tài năng bậc thầy của một thiên tài văn học Nguyễn Du .
2. Chứng minh
a. “Tố Như dụng tâm đã khổ”
– Nói đến Truyện Kiều là phải nói đến quá trình khổ công rèn luyện, gọt giũa ngòi bút để cho ra đời một áng văn chương tuyệt tác của nhân loại. Nhưng ý kiến của Mộng Liên Đường đề cập đến nỗi khổ của Nguyễn Du ở đây là “dụng tâm”, tức là làm thế nào để đưa chữ “tâm” vào tác phẩm của mình, đưa tấm lòng mình vào những dòng thơ. Bởi vì, hơn ai hết, Nguyễn Du rất coi trọng chữ tài nhưng cũng hết mực ca ngợi chữ tâm. Nguyễn Du đã khẳng định:
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài .
– Chính vì vậy, chữ tâm của ông dào dạt trên những trang giấy. Có lẽ vì vậy mà trong Truyện Kiều chữ “lòng” xuất hiện với một số lượng lớn:
+ Đó là nỗi cảm thương của Kiều trước mộ Đạm Tiên:
Lòng đâu sẵn mối thương tâm
+ Đó cũng là cái tình Kiều đem ra đền đáp Kim Trọng:
“Lấy lòng gọi chút ra đây tạ lòng”
“Để lòng thì phụ tấm lòng với ai”
+ Nhưng cũng có những tiếng lòng khiến người ta mỉa mai, ghê tởm. Đó là tiếng lòng thốt ra từ bọn buôn thịt bán người, từ những Tú Bà, Sở Khanh. Chúng thốt ra những lời ngon ngọt nhưng lại giương vuốt nhe răng làm hại bao người:
“Phải điều lòng lại rối lòng mà thôi”
“Lòng này ai tỏ cho ta hỡi lòng”
Nguyễn Du đặt tiếng lòng vào miệng những bậc tài hoa như Kim Trọng, Thúy Kiều nhưng cũng để nó thốt ra từ những kẻ xấu xa, nham hiểm như Tú Bà, Sở Khanh. Đó là dụng ý nghệ thuật của ông khi muốn lột tả sắc thái biểu cảm của chữ tâm. Chữ tâm trong sáng biểu hiện cho tấm lòng lương thiện cao cả của con người nhưng cũng có khi chữ tâm bị bôi bẩn, nhơ nhuốc trong tay bọn vô lại.
– Có thể nói Truyện Kiều là tiểu thuyết của chữ tâm. Thúy Kiều chinh phục được người đọc không chỉ bởi “Sắc đành đòi một, tài đành họa hai” mà còn bởi chữ tâm sáng chói nơi nàng. Đó là tấm lòng trinh bạch, là nghĩa khí, là sự khoan dung của nàng. Chữ tâm trải suốt cuộc đời nàng. Vì chữ tâm mà Kiều khóc thương Đạm Tiên, vì chữ tâm mà bán mình chuộc cha, trả nghĩa cho Kim Trọng. Vì chữ tâm mà Kiều tha bổng Hoạn Thư, khuyên Từ Hải ra hàng và cuối cùng vì chữ tâm mà Kiều tìm đến cái chết trên sông Tiền Đường. Hình tượng Thúy Kiều đã đi vào lòng người đọc với một cái tâm như thế.
– Ở những nhà văn chân chính xưa nay, tâm bao giờ cũng là cái gốc. Tài và trí chỉ là cành, là ngọn. Người nghệ sĩ phải vui niềm vui của con người, đau cùng nỗi đau của con người, phải khóc, phải cười, phải trăn trở cùng con người. Soi vào Truyện Kiều, ta nhận ra tác phẩm thực chất là tiếng lòng của Nguyễn Du. Mỗi một lời, một chữ, một câu trên trang giấy là sự hòa quyện giữa tâm hồn nhà văn với tâm hồn nhân vật. Nguyễn Du dõi theo bước chân của nàng Kiều trên từng chặng đường đời của nàng:
+ Khi Kiều ở lầu xanh, ông đau cùng nàng:
Khi tỉnh rượu… xót xa
+ Khi Kiều gặp Từ Hải, ông vui mừng, hân hoan trước hạnh phúc của nàng:
Trai anh hùng, gái thuyền quyên
Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng
+ Và chính ông là người thốt lên tiếng kêu đau đớn khi Kiều nhảy xuống sông Tiền Đường tự tử:
Thương thay cũng một kiếp người
Hại thay mang lấy sác tài mà chi!
Có thể nói Nguyễn Du đã hóa thân vào nhân vật, vui buồn cùng nhân vật. Đó chính là tấm lòng nhân đạo cao cả của Nguyễn Du.
b. Tự sự đã khéo, tả cảnh đã hệt, đàm tình đã thiết là tài năng nghệ thuật ở mọi phương diện đều đạt đến độ xuất sắc
– “Tự sự đã khéo”: Ở đây tác giả muốn đề cập đến nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn của nguyễn Du.
+ Cái khéo của Nguyễn Du là sự biến hóa linh hoạt cách kể, cách dẫn dắt câu chuyện (so sánh với Kim Vân Kiều truyện là một cuốn tiểu thuyết chương hồi, Truyện Kiều của Nguyễn Du là một cuốn truyện thơ). Vì là truyện thơ Việt Nam nên Truyện Kiều đậm bản sắc dân gian. Đặc biệt, Truyện Kiều đã đưa thể thơ lục bát dân tộc lên tới đỉnh cao. Thể thơ của Nguyễn Du vừa gần gũi, vừa dễ đọc, dễ thuộc, dẫn dắt người đọc vào câu chuyện một cách tự nhiên. Chính vì vậy, bức tranh toàn cảnh về đời sống xã hội, con người trong tác phẩm hiện lên vô cùng chân thực và sống động.
+ Truyện Kiều là một câu chuyện xuyên suốt với tình tiết nọ tiếp nối tình tiết kia do sự kết nối các tình tiết chặt chẽ và lô gích, từ đó người đọc có thể rút ra quy luật về số phận nhân vật
+ Truyện Kiều còn có sự kế thừa Kim Vân Kiều truyện một cách sáng tạo:
Trong Kim Vân Kiều truyện không có cuộc chia tay cảm động giữa Thúc Sinh và Kiều thì trong Truyện Kiều, đoạn Thúc sinh từ biệt Thúy Kiều lại là một trong những đoạn chia li hay nhất của thơ ca về sự chia li từ xưa đến nay, được Vũ Trinh đánh giá “ngang với một thiên phú biệt li”
Trong Kim Vân Kiều truyện miêu tả việc Từ Hải trở về với hình dung của một toán giặc cỏ, chân dung một kẻ cướp đã làm giảm giá trị thẩm mĩ của hình tượng nhân vật thì trong Truyện Kiều, hình ảnh của đạo quân của Từ Hải lại hiện lên:
Ngất trời sát khí mơ màng
Đầy sông kình ngạc, chật đường giáp binh
Hiện lên cái khí thế mạnh mẽ, sục sôi của đoàn quân chiến thắng trở về với cái khả năng làm khuynh đảo cả đất trời. Người đọc như bị cuốn vào cái khí thế hào hùng, sục sôi đó.
– “Tả cảnh đã hệt” là sự chính xác, đúng đắn, phù hợp, lô gic trong tả cảnh của Nguyễn Du.
+ Ông đã phát hiện cái hồn của cảnh vật và đưa vào trong thơ một cách tinh tế nhất: Nguyễn Du có biệt tài tả mùa với ngôn ngữ có tính cá thể hóa cao độ, mỗi mùa một khác:
Mùa hè:
Dưới trăng quyên đã gọi hè
Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông.
Mùa thu: Long lanh …bóng vàng
Mùa xuân: Cỏ non …bông hoa
+ Cảnh không chỉ đẹp mà cảnh còn phù hợp với tâm trạng con người:
Đôi trai gái “Người quốc sắc, kẻ thiên tài” vừa gặp nhau đã say mê và khi chia tay thì lòng đầy lưu luyến:
Dưới cầu nước chảy trong veo
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha
Khi con người cô độc, sống trong tâm trạng cô đơn thì thiên nhiên cũng mang đầy tâm trạng:
Buồn trông cửa bể chiều hôm
…..
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi
Thiên nhiên như thấm đẫm nỗi buồn nhớ, sự lo lắng, phấp phỏng của Kiều về những ngày sắp tới là dự báo về một cuộc đời chìm nổi, một tương lai vô định đầy hiểm nguy, bất trắc?
=> “Cái hệt” của Nguyễn Du không chỉ dừng lại ở độ chính xác, đúng đắn mà đạt tới trình độ tinh vi, sâu sắc, giàu giá trị thẩm mĩ.
– “Đàm tình đã thiết”: Đó là nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật nổi bật trong tác phẩm. Ngòi bút của Nguyễn Du tinh vi, lão luyện trong việc phân tích tâm lí nhân vật. Tâm trạng của mỗi nhân vật được xây dựng đều phù hợp với hoàn cảnh
+ Trong tác phẩm, Kiều là nhân vật có tâm trạng phức tạp nhất:
Tâm trạng bất lực, uất ức khi bị đem ra làm món hàng mua bán
Nỗi mình thêm tức nỗi nhà
Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng
Ngại ngùng dín gió e sương
Ngừng hoa bóng thẹn, trông gương mặt dày.
Khi Kiều trao duyên cho em để trả nghĩa cho Kim Trọng, ta mới thấy hết cái tình sâu nặng:
Phận sao phận bạc như vôi
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây
Những đau thương, uất ức dồn lại đã trở thành nỗi căm phẫn trong Kiều:
Đã cho lấy chữ hồng nhan
Sao cho sỉ nhục một lần mới thôi
Điệp từ “cho” lặp lại nhiều lần như sự đay nghiến, day dứt, khắc khoải khôn nguôi về nỗi đau thân phận. Câu thơ chất chứa niềm bức bối, bực dọc như muốn bùng ra. Trong thơ bật ra tiếng hét phẫn nộ, tiếng tố cáo gay gắt những ngang trái cuộc đời chà đạp lên số phận người phụ nữ.
+ Trong Truyện Kiều lúc nào cũng hiển hiện một chữ tình sâu nặng. Cái tình trong Truyện Kiều là cái tình sâu, tình thắm, cái tình đẹp nhất của loài người bởi nó chở theo giá trị nhân đạo sâu sắc của tác giả. Trước mỗi cảnh đời của nhân vật ta đều bắt gặp sự đồng cảm, thương xót của nhà thơ.
c. Thành công của Truyện Kiều còn ở chỗ “Con mắt trông thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời”
– “Sáu cõi” là sự bao chiếm là sự bao chiếm toàn bộ không gian đông-tây-nam-bắc, trên và dưới. Đó là sự thâu tóm cả vũ trụ, đất trời. Trong Truyện Kiều có không ít những thơ chứa đựng cả thiên nhiên vũ trụ:
– Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia
– Trời cao sông rộng một màu bao la.
– “Con mắt trông thấu sáu cõi” cũng là một biểu hiện của một nhân sinh quan nhạy cảm, một tâm hồn rộng mở thu nhận mọi biến chuyển cuộc đời. Chính bởi thế mà ông rút ra được những quy luật của cuộc đời:
– Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài ……………ghét nhau
– Ngẫm hay muôn sự tại trời
Trời kia đã bắt làm người có thân
Cho thanh cao mới được phần thanh cao.
Bằng con mắt “Trông thấu sáu cõi”, Nguyễn Du đã thể hiện một vốn sống phong phú, uyên thâm, hiểu đời và hiểu người. Ông nghe nhiều, quan sát nhiều để đúc rút lại những chân lí của cuộc sống.
– Mắt Nguyễn Du nhìn thấu sáu cõi mà lòng thì “nghĩ suốt cả đời”.
+ Đó là tấm lòng canh cánh lo cho số phận con người, lo cho cuộc đời. Ông đã nói hộ những người phụ nữ những bất công, đau khổ:
Đau đớn thay …lời chung
3. Bình luận
– Lời nhận định của Mộng Liên Đường đã khái quát được một cách chung nhất những giá trị của Truyện Kiều trên cả hai lĩnh vực nội dung và nghệ thuật vì “Tố Như dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả cảnh đã hệt, đàm tình đã thiết”. Nhưng xét đến cùng bút lực ấy có được cũng là nhờ “con mắt trông thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời”. Nguyễn Du là một nghệ sĩ chân chính
– Lời bàn của Mộng Liên Đường cho thấy ông không chỉ là một người am hiểu, học rộng, hiểu sâu về văn chương mà ông còn xứng đáng là một tri kỉ của Nguyễn Du khi khám phá được cái thần tuyệt diệu của tài năng nghệ thuật Nguyễn Du, đồng điệu với tâm hồn, nỗi niềm của Nguyễn Du.

☘️ Tổng hợp những đề văn hay nhất về “Truyện Kiều” và hướng dẫn làm bài Đề 4

Có ý kiến cho rằng: Người nghệ sĩ chân chính là người suốt đời chỉ truyền bá một thứ tôn giáo: Tình yêu thương con người.
Anh/Chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Qua các trích đoạn “Truyện Kiều” đã học trong chương trình Ngữ văn 10- THPT, anh/chị hãy làm sáng tỏ.

❤ Tổng hợp những đề văn hay nhất về “Truyện Kiều” và hướng dẫn làm bài Gợi ý đáp án

Nhận thức đề
Đề bài yêu cầu làm rõ 2 nội dung:
– Hiểu đúng ý kiến: Người nghệ sĩ chân chính suốt đời chỉ viết về con người, ca tụng tình yêu thương con người.
– Phân tích tình yêu thương, sự đồng cảm của tác giả Nguyễn Du đối với các nhân vật trong “Truyện Kiều”.(ý chính)
Yêu cầu kiến thức
Mở bài: nêu vấn đề
Thân bài

a) Giải thích nhận định (1,5 điểm)

+Người nghệ sĩ là cách gọi chung cho các nhà văn, nhà thơ…những người có đóng góp lớn lao cho nghệ thuật. (0,25 điểm)
+ Người nghệ sĩ chân chính: Những người mang lý tưởng tiến bộ của thời đại, đại diện cho lương tri của loài người, sẵn sàng đấu tranh chống lại cái xấu, cái ác để bảo vệ công lí, lẽ phải, giàu tình yêu thương nhân ái, sẵn sàng xả thân cho cuộc đời và cho nghệ thuật. (0,5 điểm)
+ Sứ mệnh cao cả của người nghệ sĩ là khám phá cái đẹp của cuộc sống và chuyển tải đến người đọc thông qua tác phẩm văn học. Con người với tất cả niềm vui hạnh phúc, khát khao và nỗi buồn đau luôn trở thành nguồn cảm hứng dồi dào của văn học và là mối quan tâm hàng đầu của nhà văn. (0,5 điểm)
+Tác phẩm văn học chân chính là sản phẩm của nhà văn nhân đạo chủ nghĩa. Qua những cảnh ngộ, nhà văn muốn người đọc cùng chia sẻ và đồng cảm, bênh vực và ca tụng con người, ca ngợi tình người. Những tác phẩm như thế sẽ trường tồn và độc giả yêu thích. (0, 25 điểm)
=> Ý kiến bàn về sứ mệnh của người nghệ sỹ, giá trị và chức năng của văn học nghệ thuật.
b) Bàn luận: Vì sao nhà văn chân chính lại lấy việc làm cho cuộc đời tốt đẹp hơn làm mục đích sáng tác? (2,5 điểm)
+ Vì Người nghệ sĩ chân chính rất giàu tình yêu thương đối với cuộc đời. Họ luôn day dứt, trăn trở trước cuộc sống và con người. (họ là “người cho máu”, là “nhà nhân đạo từ trong cốt tuỷ”…) (0,5 điểm)
+ Vì họ hiểu rõ khả năng, sức mạnh to lớn của văn chương. Họ đã dùng văn chương như một công cụ đắc lực để thực hiện lí tưởng nghệ thuật của mình! Tác phẩm của họ dù viết theo đề tài nào cũng vẫn để bày tỏ “lòng thương và tình bác ái, để người gần người hơn”. (0,5 điểm)
+ Họ thực hiện chức năng giáo dục (truyền bá tình yêu thương con người) bằng cách nào? (1,5 điểm)
– Ca ngợi, khẳng định những cái tốt đẹp của cuộc sống (những yêu thương, nhân ái, vị tha).
– Cảm thương, bênh vực những kiếp người đau khổ, bất hạnh.
– Đồng tình với những khát vọng chính đáng của con người.
– Lên án, tố cáo những cái xấu, cái ác…để bảo vệ con người khỏi những áp bức, bất công!
Phân tích biểu hiện của tình yêu thương trong các trích đoạn “Truyện Kiều”. (7 điểm)
Khái quát :
– Văn học trung đại Việt nam từ cuối thế kỷ XIII- đầu thế kỷ XIX phát triển trong một giai đoạn lịch sử có nhiều biến cố “kinh thiên động địa” và những phen “thay đổi sơn hà”. Những biến cố xã hội đó đã có ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của nhân dân, và vấn đề con người trở thành mối quan tâm hàng đầu của các tác gia văn học.(0,5 điểm)
Giới thiệu ngắn về tác giả, tác phẩm.
Nguyễn Du là một nhà thơ lớn của dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. “Truyện Kiều” của ông là đỉnh cao chói lọi và là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam.
Dù đã sống hơn 200 trăm năm, nhưng tác phẩm vẫn luôn mới mẻ trong lòng người đọc bởi tính nhân loại phổ quát. Đọc “Truyện Kiều” Ta thấy cái tâm thể hiện rất rõ trên từng nét bút của tác giả – Một tình yêu thương con người vô tận theo cách của Nguyễn Du.(0,5 điểm)
Tình yêu thương con người thể hiện trong các trích đoạn “Truyện Kiều”:
“Truyện Kiều là tiếng nói ngợi ca những giá trị, phẩm chất tốt đẹp của con người: Ca ngợi tài sắc, hiếu nghĩa, bao dung của Thuý Kiều (Trao duyên); Sáng trong, thanh khiết (Nỗi thương mình). Ca ngợi lòng nhân hậu, đức hy sinh của Thúy Vân. Ca ngợi chí khí anh hùng của Từ Hải (Chí khí anh hùng)…(1,5 điểm)
Qua “Truyện Kiều”, Nguyễn Du cất tiếng khóc thương cho những cho những kiếp người đau khổ – Đặc biệt là những người tài hoa, bạc mệnh: Khóc cho tình yêu trong sáng, chân thành bị tan vỡ, khóc cho tình cốt nhục bị lìa tan (Trao duyên), khóc cho thân xác bị đày dọa hắt hủi (Nỗi thương mình)… Vì thế, không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Du đặt tên cho tác phẩm của mình là “Đoạn trường tân thanh”. (1,5 điểm)
“Truyện Kiều” là bài ca về tình yêu tự do và ước mơ công lý.
Nhà thơ đã vượt lên những quy tắc lễ giáo phong kiến để đồng cảm,nâng niu những biểu hiện tình yêu trong trong sáng, chân thành giữa Thúy Kiều với Kim Trọng. (Thề nguyền,Trao duyên).
Qua hình tượng Từ Hải, Nguyễn Du gửi gắm ước mơ làm chủ cuộc đời, trả ân báo oán công bằng (Chí khí anh hùng). (1,5 điểm)
“Truyện Kiều” là bản cáo trạng đanh thép tố cáo hiện thực đen tối của xã hội phong kiến đã vùi dập, đói xử bất công với con người.(1 điểm)
=>Nguyễn Du, nhà thơ thiên tài của dân tộc , người có“có con mắt trông thấu sáu cõi, có tấm lòng nghĩ đến muôn đời”thông qua số phận, và tính cách của nhân vật trung tâm – Thúy Kiều đã biểu hiện trong áng thơ tuyệt tác “Đoạn trường tân thanh” cảm hứng nhân đạo sâu sắc, cao cả. (0,5 điểm)
3. Kết bài: ( 1 điểm)
Khẳng định lại vấn đề :
+Vai trò , thiên chức của người cầm bút.
+Tư tưởng nhân đạo là nội dung quan trọng, chủ đạo “Truyên Kiều” nói riêng và trong nhiều tác phẩm Văn học trung đại Việt Nam nói chung.

☘️ Tổng hợp những đề văn hay nhất về “Truyện Kiều” và hướng dẫn làm bài Đề 5 :

Nghệ thuật miêu tả nhân vật trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du ( Dựa vào các
đoạn trích đã học và đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều).

❤ Tổng hợp những đề văn hay nhất về “Truyện Kiều” và hướng dẫn làm bài Gợi ý đáp án:

1. Mở bài:

  • Giới thiệu về tác phẩm: Truyện Kiều là một áng văn chứa nhiều giá trị, lưu truyền muôn đời.
  • Giới thiệu về nghệ thuật miêu tả nhân vật: nghệ thuật miêu tả nhân vật là một trong những điểm sáng. Qua những đoạn trích được học trong chương trình văn 9 kì 1 như “Chị em Thúy Kiều”, “Cảnh ngày xuân”, “Mã Giám Sinh mua Kiều”, “Kiều ở lầu Ngưng Bích” đã phần nào chứng minh điều đó.

2. Thân bài:

a, Nghệ thuật miêu tả ngoại hình nhân vật:

* Thủ pháp ước lệ tượng trưng: Đây là thủ pháp miêu tả được sử dụng trong văn học Trung đại, lấy vẻ đẹp thiên nhiên tả vẻ đẹp con người. Thiên nhiên là trung tâm, là chuẩn mực của cái đẹp.

– Trong đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”: Giới thiệu chị em Thúy Kiều: “đầu lòng hai ả tố nga”, “mai cốt cách tuyết tinh thần” – mĩ từ ca ngợi 2 cô gái đẹp người đẹp nết.

  • Tả Thúy Vân: dùng hình ảnh mây, tuyết, hoa, ngọc để nói về vẻ đẹp trong sáng, hiền hậu, đoan trang của Vân.
  • Tả Thúy Kiều: dùng hình ảnh “làn thu thủy, nét xuân sơn” để tả vẻ đẹp đôi mắt của Kiều, ca ngợi tài năng của Kiều “vốn tính trời”, “nghề riêng ăn đứt hồ cầm một chương”.

– Trong đoạn trích “Mã Giám Sinh mua Kiều”, tác giả dùng hình ảnh hoa để tả Kiều: “lệ hoa mấy hàng”, “Nét buồn như cúc điệu gầy như mai”, vừa tả người đẹp, vừa thể hiện nỗi tủi nhục khi phải bán mình chuộc cha.

– Trong đoạn trích Cảnh ngày xuân”: Tả nam thanh nữ tú đi hội đạp thanh là “yến anh”, “tài tử”, “giai nhân”, vẻ đẹp của con người hòa với cảnh sắc thiên nhiên, khiến thiên nhiên thêm sinh động.

⇒ Nhận xét:

– Về ngôn ngữ: tác giả sử dụng ngôn từ trang trọng, mĩ miều, hình ảnh tươi đẹp, trong sáng.

– Hình ảnh: lựa chọn những hình ảnh đẹp trong tự nhiên.

– Qua miêu tả thấy được tuyến nhân vật chính diện, cho thấy tình cảm yêu mến, ngưỡng mộ của tác giả đối với nhân vật.

* Thủ pháp tả thực: tả Mã Giám Sinh

– Giới thiệu nhân vật: “Hỏi tên, rằng: Mã Giám Sinh/ Hỏi quê, rằng: Huyện Lâm Thanh cũng gần”.

– Ngoại hình, tuổi tác: “Quá niên trạc ngoại tứ tuần/ Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao”.

– Cho thấy phẩm chất con người qua một chuỗi hành động:

  • Không có tôn ti trật tự, con người không có giáo dục: “Trước thầy sau tớ lao xao”, “Ghế trên ngồi tót sỗ sàng”.
  • Bản chất chợ búa, con buôn: “Đắn đo cân sắc cân tài” bắt Kiều đàn hát, làm thơ để xem tài, sau khi ưng ý mới “tùy cơ dặt dìu” hỏi giá, tiếp tục “Cò kè bớt một thêm hai”, coi Kiều như một món hàng và trả giá bốn trăm lượng.

⇒ Nhận xét:

– Tác giả sử dụng ngôn từ tả thực, chỉ dùng 2 câu để tả ngoại hình nhân vật, còn lại tả hành động để cho thấy bản chất con người nhân vật Mã Giám Sinh; sử dụng nhiều tính từ như “lao xao”, “sỗ sàng”, đặc biệt động từ “tót” cho thấy một hành động vô phép tắc, dáng ngồi xấu xí.

– Qua miêu tả thấy được nhân vật phản diện, thể hiện sự khinh ghét của tác giả

b, Nghệ thuật miêu nội tâm nhân vật: qua đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích

* Thủ pháp tả cảnh ngụ tình

– Cảnh vật được nhìn qua con mắt của kẻ đang đau buồn như Thúy Kiều tràn ngập 1 màu ảm đạm, u ám, cô liêu: 8 câu thơ cuối bài, cảnh vật được nhìn bằng sự cô đơn, sợ hãi của Kiều, tác giả miêu tả tâm trạng Kiều thông qua những hình ảnh thiên nhiên như thuyền, cánh hoa trôi trên dòng nước, gió thét, sóng gào.

* Thủ pháp độc thoại nội tâm

– Tác giả tả tâm trạng nhớ thương của Kiều với Kim Trọng, với cha mẹ thông qua 8 câu độc thoại nội tâm của Kiều, từ nhớ thương người yêu đến thương xót cho phẩm hạnh, cho mối tình của hai người; từ lo lắng cho cha mẹ đến xót xa đau buồn nghĩ mình khó quay về gặp cha mẹ nữa.

c, Nhận xét về nghệ thuật miêu tả nhân vật:

– Dùng cách gián tiếp để miêu tả nhân vật chính diện: dùng thiên nhiên tả vẻ đẹp, dùng thiên nhiên tả nội tâm; giọng thơ nhẹ nhàng, trang trọng, ưu ái, thương xót.

– Dùng cách trực tiếp để tả nhân vật phản diện: tả trực tiếp ngoại hình, tính cách, hành động, không sử dụng hình ảnh thiên nhiên trong miêu tả; giọng thơ thể hiện thái độ tức giận, khinh ghét.

– Qua miêu tả dự đoán trước số phận nhân vật.

3. Kết bài:

  • Nghệ thuật miêu tả nhân vật của Nguyễn Du qua 1 vài đoạn trích đã được học: kết hợp miêu tả với thể hiện tình cảm bản thân, sử dụng những thủ pháp nghệ thuật truyền thống xen với cảm hứng nhân đạo mới.
  • Cho thấy tài năng của Nguyễn Du.
Nghệ thuật miêu tả nhân vật trong Truyện Kiều – Bài mẫu

Truyện Kiều một tuyệt tác không chỉ của văn học Việt Nam mà còn là của văn học thế giới. Sự thành công của tác phẩm không chỉ là ở nội dung hấp dẫn, truyền tải nhiều giá trị nhân văn tốt đẹp. Mà còn ở hình thức nghệ thuật đặc sắc, một trong những nét nghệ thuật đó chính là nghệ thuật xây dựng chân dung nhân vật. Bằng nét vẽ ước lệ cho nhân vật chính diện và nét vẽ thực cho nhân vật phản diện, Nguyễn Du đã xây dựng nên những chân dung nghệ thuật đặc sắc.

Trước hết, khi xây dựng nhân vật chính diện, những con người có phẩm chất đức hạnh tốt đẹp, Nguyễn Du sử dụng bút pháp ước lệ, tượng trưng để làm nổi bật vẻ đẹp của họ. Là chàng thư sinh Kim Trọng hiện lên thật đẹp đẽ, đúng cốt cách của một kẻ sĩ, người quân tử:

Tuyết in sắc ngựa câu giòn,
Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời,
[..]
Nguyên người quanh quất đâu xa,
Họ Kim tên Trọng vốn nhà trâm anh.
Nền phú hậu bậc tài danh,
Văn chương nết đất thông minh tính trời.
Phong tư tài mạo tót vời,
Vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa.

Còn chàng Từ Hải lại hiện lên vô cùng uy dũng, mang khí chất của bậc anh hùng, chọc trời khuấy nước: “Râu hùm, hàm én, mày ngài,/ Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao”. Nhưng bức tranh chân dung đẹp đẽ nhất chính là khi miêu tả chân dung hai nàng Kiều, đây là những chân dung mang tính chất dự đoán số phận. Vân mang vẻ đẹp đầy đặn, phúc hậu: “Vân xem trang trọng khác vời/ Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang/ Hoa cười ngọc thốt đoan trang/ Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da” . Nguyễn Du sử dụng hình ảnh ước lệ: khuôn trăng, nét ngài, hoa cười, ngọc thốt để miêu tả vẻ đẹp nàng Vân. Thúy Vân có khuôn mặt đầy đặn như trăng rằm, nụ cười đoan trang duyên dáng. Vẻ đẹp đó khiến tạo hóa thua nhường, từ đó cũng dự báo cuộc đời êm đẹp, bình lặng, hạnh phúc của nàng.

Với nhân vật Thúy Kiều, Nguyễn Du sử dụng bút pháp gợi tả, chỉ chấm phá vài nét nhưng gợi lên cái thần thái, cốt cách của nhân vật:

Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.

Vẻ đẹp của nàng là vẻ sắc sảo, mặn mà, nhan sắc nghiêng nước nghiêng thành làm ai cũng phải mê đắm. Không giống như Thúy Vân, đi miêu tả chi tiết, ở Thúy Kiều Nguyễn Du chỉ miêu tả đôi mắt của nàng, đôi mắt nàng được ví như làn nước mùa thu trong xanh, tĩnh lặng mà ẩn chứa biết bao cảm xúc, đôi lông mày thanh tú như dáng núi mùa xuân. Chính cách gợi tả này đã khiến cho vẻ đẹp của Kiều càng trở nên sắc sảo hơn. Vẻ đẹp của nàng khiến hoa ghen, liễu hờn, tạo hóa cũng phải ghen tuông, từ đó dự báo cuộc đời nhiều bất hạnh, sóng gió. Và cuộc đời 15 năm phiêu bạt đã cho thấy chiêm nghiệm của Nguyễn Du: “Lạ gì bỉ sắc thư phong/ Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”.

Nếu như đối với các nhân vật chính diện, Nguyễn Du sử dụng bút pháp ước lệ tượng trưng, chân dung nhân vật hiện lên vô cùng đẹp đẽ, mang trong mình những phẩm chất tốt đẹp, thì đến với các nhân vật phản diện, ông lại sử dụng bút pháp tả thực, lột trần bộ mặt xảo trá của chúng. Mã Giám Sinh hiện lên là con buôn chính hiệu:

Quá niên trạc ngoại tứ tuần
Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao

Ghế trên ngồi tót sỗ sàng

Là người đã ngoài bốn mươi tuổi, theo tục lệ xưa thường sẽ để râu, nhưng tên Mã Giám Sinh lại mày râu nhẵn nhũi, kệch cỡm, lố bịch, cố tình ăn mặc trẻ trung như một người con trai mới lớn. Hai từ nhẵn nhụi, bảnh bao đã lột trần bản chất thực của hắn, đồng thời thể hiện thái độ mỉa mai, châm biếm của tác giả. Hắn cố tình dùng quần áo bề ngoài để che đậy bản chất xấu xa ở bên trong nhưng những hành động cử chỉ của hắn thì không thể thay đổi: “ghế trên ngồi tót” hết sức thiếu văn hóa. Không chỉ vậy, bản chất con buôn còn được bộc lộ khi bắt Kiều gảy đàn làm thơ để hắn kiểm chứng: “Đắn đo cân sắc, cân tài/ Ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ” . Rồi mua bán nàng như một món hàng, cò kè bớt một thêm hai để được giá mà hắn cho là xứng đáng nhất.

Còn Tú Bà, chỉ cần đúng bốn câu thơ duy nhất, Nguyễn Du đã cho người đọc thấy sự xấu xa, bản chất đểu giả của thị:

Rèm trong đã thấy một người bước ra.
Thoắt trông lờn lợt màu da,
Ăn gì cao lớn đẫy đà làm sao?
Trước xe lơi lả han chào

Bản chất buôn thịt bán người, lấy đêm làm ngày đã lộ rõ trên làn da nhợt nhạt, trong dáng người to lớn đẫy đà của mụ. Thêm vào đó là điệu bộ lả lơi, chào hỏi khách đã cho chúng ta hình dung đầy đủ về bản chất xấu xa, cũng như công việc dơ bẩn của mụ: lừa lọc, đưa biết bao người con gái hiền lành nết na vào cảnh cực khổ, phải bán rẻ nhân phẩm của mình.

Với biệt tài xây dựng và miêu tả chân dung nhân vật, Nguyễn Du đã xây dựng thành công hai tuyến nhân vật chính diện và phản diện. Qua những chân dung nhân vật này, ông cũng gửi gắm thái độ trân trọng ngợi ca với những kẻ quốc sắc, bậc thiên tài trong xã hội. Đồng thời cũng thể hiện thái độ mỉa mai, châm biếm, căm ghét với những kẻ xấu xa, độc ác.

Phân tích đoạn trích Cảnh ngày xuân - Trích Truyện Kiều - Nguyễn Du Tổng hợp những đề văn hay nhất về “Truyện Kiều” và hướng dẫn làm bài
Phân tích đoạn trích Cảnh ngày xuân – Trích Truyện Kiều – Nguyễn Du

☘️ Tổng hợp những đề văn hay nhất về “Truyện Kiều” và hướng dẫn làm bài Đề 6 :

Một trong những phương diện thể hiện tài năng của người nghệ sĩ ngôn từ là am hiểu và miêu tả thành công thế giới nội tâm của nhân vật trong tác phẩm văn học. Bằng những kiến thức đã học về đoạn trích: “Kiều ở lầu Ngưng Bích” (Trích Truyện Kiều của Nguyễn Du) em hãy làm sáng tỏ điều đó?

❤ Tổng hợp những đề văn hay nhất về “Truyện Kiều” và hướng dẫn làm bài Đáp án gợi ý

A. Yêu cầu cần đạt:
Bài làm của học sinh cần đảm bảo những yêu cầu sau:
I. Yêu cầu về kỹ năng:
– Biết cách làm bài văn nghị luận về một ý kiến bàn về văn học.
– Kết cấu chặt chẽ, diễn đạt trong sáng, khuyến khích các bài viết sáng tạo.
II. Yêu cầu về kiến thức:
Trên cơ sở những kiến thức đã học về Truyện Kiều, đặc biệt là đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” cần làm rõ được sự am hiểu và miêu tả thành công thế giới nội tâm nhân vật Thúy Kiều là một phương diện thể hiện tài năng của Nguyễn Du với các nội dung sau:
1. Giải thích ý kiến: 2đ
– Văn học phản ánh cuộc sống bằng hình tượng nghệ thuật, chủ yếu là hình tượng nhân vật trong tác phẩm. Một trong những phương diện thể hiện tài năng của nhà văn – người nghệ sĩ ngôn từ là am hiểu và miêu tả thành công thế giới nội tâm nhân vật.
– Miêu tả nội tâm trong tác phẩm văn học là tái hiện những suy nghĩ, cảm xúc, những băn khoăn trăn trở, những day dứt, suy tư, những nỗi niềm thầm kín và cả diễn biến tâm trạng của nhân vật.
Đó là biện pháp quan trọng để xây dựng nhân vật, làm cho nhân vật hiện lên sinh động, có hồn hơn. Nhà văn có thể miêu tả trực tiếp nội tâm gián tiếp bằng cách miêu tả qua cảnh vật, nét mặt, cử chỉ, trang phục của nhân vật.
2. Chứng minh qua đoạn trích: 9đ
a. Hoàn cảnh – Tình huống để Nguyễn Du miêu tả nội tâm nhân vật Kiều.(1đ )
b. Miêu tả nội tâm trực tiếp qua những lời độc thoại nội tâm: ( 3đ)
– Tài năng của Nguyễn Du trước hết là để Kiều nhớ Kim Trọng trước nhớ cha mẹ sau rất hợp tâm lý của con người, hợp lô gic tình cảm.
– Cùng là nỗi nhớ nhưng cách nhớ khác nhau với những lí do khác nhau nên cách thể hiện cũng khác nhau. Nỗi nhớ Kim Trọng chủ yếu là liên tưởng ,hình dung và tưởng tượng. Nhớ cha mẹ chủ yếu là xót xa lo lắng thể hiện trách nhiệm và bổn phận của đạo làm con.
c. Miêu tả nội tâm gián tiếp qua cảnh vật thiên nhiên (bút pháp tả cảnh ngụ tình): (4đ)
– Cảnh thiên nhiên mênh mông hoang vắng và rợn ngợp qua 6 câu đầu thể hiện nỗi buồn và cô đơn của Kiều;
– Cảnh thiên nhiên trong 8 câu cuối thực sự là khung cảnh của bi kịch nội tâm. Mỗi cảnh vật thiên nhiên gợi những tâm trạng khác nhau trong lòng Kiều. Bức tranh thiên nhiên cũng là bức tranh tâm trạng.
d. Vai trò của nghệ thuật miêu tả nội tâm trong việc xây dựng thành công hình tượng nhân vật Kiều:
Vẻ đẹp lòng hiếu thảo, thủy chung, ý thức về danh dự phẩm hạnh và thân phận cô đơn hoảng sợ của Kiều trước một tương lai đầy cạm bẫy.( 1đ)
3- Đánh giá:
Thành công trong việc miêu tả nội tâm nhân vật là một phương diện để thể hiện tài năng của nhà văn, làm nên sức sống cho hình tượng nhân vật, cho tác phẩm văn học. Có lẽ Truyện Kiều sống mãi một phần bởi nghệ thuật miêu tả nội tâm sâu sắc của Nguyễn Du. (1đ)

☘️ Tổng hợp những đề văn hay nhất về “Truyện Kiều” và hướng dẫn làm bài Đề 7 :

Đề bài: Trong Truyện Kiều Nguyễn Du đã viết:
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng
Giải thích hai câu thơ trên. Qua Truyện Kiều, hãy làm sáng tỏ thêm hai câu thơ đó.
❤ Tổng hợp những đề văn hay nhất về “Truyện Kiều” và hướng dẫn làm bài Bài viết tham khảo
Trong Truyện Kiều Nguyễn Du đã viết:
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng
Giải thích hai câu thơ trên. Qua Truyện Kiều, hãy làm sáng tỏ thêm hai câu thơ đó.
Thiên hạ hà nhân khắp Tố Như?
Nỗi băn khoăn ấy của Nguyễn Du làm chúng ta không thể nào quên được cuộc đời và tấm lòng của ông. Cho đến muôn đời sau tên tuổi Nguyễn Du vẫn sống mãi với nhân loại. Ta quên sao được một con người có tấm lòng nhân hậu bao la, thông cảm sâu sắc với những kiếp người lầm than. Tác phẩm Đoạn trường tân thanh vẫn chói người trong nền văn học nước nhà. Câu thơ:
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng
Dường như mang ý nghĩa và nội dung của nhan đề cũng như của truyện thơ Nôm Tố Như.
Cuộc bể dâu và những điều trông thấy mà đau đớn lòng ấy có nghĩa gì? Vì sao Nguyễn Du lại viết như thế? Điều đó được tác giả thể hiện rất rõ qua tác phẩm cũng như cuộc đời mình.
Cuộc bể dâu và những điều trông thấy mà đau đớn lòng ấy có nghĩa gì? Vì sao Nguyễn Du lại viết như thế? Điều đó được tác giả thể hiện rất rõ qua tác phẩm cũng như cuộc đời mình.
Hình ảnh bể dâu trong câu thơ được nhà thơ lấy ý từ câu chữ Hán: Thương hải biến vi tang điền (Bể xanh hoá thành ruộng dâu). Đó chính là hình ảnh của sự thay đổi, sự biến chuyển nhanh chống ngay trước mắt ta. Hình ảnh ruộng dâu xanh ngắt mới hiện ra trước mắt mà lại biến thành biển nước bao la. Phải chẳng đây là ảo giác? Cuộc bể dâu mà Nguyễn Du trải qua đây không phải là ảo giác mà là sự thực rành rành trước mắt. Đó là hình ảnh của xã hội với sự thay đổi nhanh chóng không thể ngờ của nó mà Nguyễn Du đã chứng kiến. Chính vì thế, nhưng điều trông thấy đã làm cho nhà thơ đau đớn lòng. Tâm can tác giả quặn thắt, đau xót vô cùng trước những hình ảnh diễn ra hằng ngày, hằng giờ. Nhà thơ chua xót và thông cảm với những kiếp người cơ cực trong xã hội bây giờ.
Nguyễn Du đã trông thấy những gì? Đó là cả một bức tranh chân thực về xã hội loạn lạc thời phong kiến với cảnh ăn chơi sa đọa của vua quan và cầnh nghèo khổ của nhân dân.
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng
Quả thật, đây chính là cuộc bể dâu mà nhà thơ đã trải qua. Xã hội ngày xưa với vua là đấng tôi cao đầy quyền lực giờ đây thay bằng thế lực cùa đồng tiền. Đồng tiền ngự trị lên trên tất cả. Trong Truyện Kiều, điều này hiện ra rất rõ. Khi gia đình Kiều mắc oan thì:
Có ba trăm lạng việc này mói xong.
Có tiền là có thể giải quyết được tất cả. Kiều phải bán thân mình như một món hàng, mà kẻ mua:
Đắn đo cân sắc, cân tài
Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm,
Thế có đau xót, nhục nhã không? Con người, nhân cách và phẩm giá đánh giá bằng tiền bạc. Bốn trăm lượng để đổi lấy cả đời con gái sắc tài bậc nhất! Còn gì là đạo lí xã hội?
Ngoài ra, Nguyễn Du còn đau lòng trước cảnh sống cùa những con người đau khổ, bất hạnh. Đó là kiếp sống của nàng Kiều, cùa Vương ông, Kim Trọng, Thuý Vân… mà Kiều là nhân vật trung tâm. Tất cả những nhân vật trong Truyện Kiều đều là người bất hạnh. Vương ông là người cha bất hạnh, người đàn ông đau khổ vì con phải bán mình vì ông.
Kim Trọng, chàng thư sinh không gặp may, không cưới được người mình yêu cũng như Thuý Vân phải chấp nhận một cuộc hôn nhân được định sẵn. Họ sống hạnh phúc chăng, trong khi Kim Trọng luôn canh cánh nghĩ đến Kiều, khi Thuý Vân chỉ vì nghĩa tình với chị mà sống cùng chàng Kim?
Tất cả những kiếp người ấy không làm Nguyễn Du đau đớn lòng bằng kiếp sống của Kiều. Một kiếp sống mà Nguyễn Công Trứ đã chỉ trích:
Đã biết má hồng thời phận bạc
Trách Kiều nhi chưa trọn tấm lòng vàng.
Nguyễn Công Trứ không biết đến tấm lòng vàng thực sự của Kiều, mặc dầu cô đã:
Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần.
Kiều bị xô đẩy vào tay Tú Bà rồi Sở Khanh rồi Hoạn Thư, Hoạn Bà… Tất cả bọn họ vùi dập đời Kiều xuống đáy sâu của xã hội. Nàng đâu muốn bán mình, bán thân. Trong kiếp đoạn trường, nàng dường như đã chết:
Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh
Giật mình mình lại thương mình xót xa.
Không còn là nàng Kiều ngày xưa, xưa thuở e lệ nép vào dưới hoa.
Hạnh phúc của Kiều mỏng như tờ giấy, như chiếc lá vàng trong cơn gió lốc. Kiều sống với Từ Hải nhưng rồi chính tay Kiều đã đưa Từ Hải vào cái chết do mắc lừa quan tổng đốc Hồ Tôn Hiến.
Tất cả cuộc đời Kiều có lẽ là tổng hợp của bao kiếp người đau khổ mà Nguyễn Du chứng kiến. Nguyễn Du thông cảm và hiểu rõ nối đau của những người phụ nữ như Kiều và ông viết với cả tâm huyết mình. Chính tác giả Truyện Kiều đã bật kêu lên:
Đau đớn thay phận đàn bà…
Và mỗi khi Kiều bị đánh đập, trái tim Tố Như lại rỏ máu thành thơ:
Thịt da ai cũng là người
Lòng nào hồng rụng thắm rời chẳng đau.
Vì sao nhà thơ lại có một tấm lòng nhân hậu bao la như thế để đau đớn lòng trước một cuộc bể dâu khốc hại? Do chính là sự gần gũi của nhà thơ với nhân dân, với nỗi cơ cực lầm than của họ. Nhà Lê mục nát, sụp đổ, Nguyễn Du luân lạc mười năm trời, đói khát như những người cùng khôn. Chính vì thế, ông cũng thông cảm với nỗi đau của con người, nhất là phận đàn bà, những thân phận bị xã hội vùi dập, chà xát tệ hại nhất. Nguyễn Du nhận ra sự thối nát, mặt trái của thế lực cầm quyền. Ông chứng kiến tận mắt bức tranh đen xám tàn khốc của triều đình và cả xã hội phong kiến. Cho nên, tất cả những điều ấy đã chứng minh cho ý nghĩa hiện thực và tấm lòng của nhà thơ qua hai câu thơ:
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
Nguyễn Du đã có con mắt và con tim rất tiến bộ lúc bây giờ. Ông đã nhìn nhận được mâu thuẫn xã hội, mới có thể thốt lên những lởi đau xót đến như thế.
Ngày nay, xã hội đã thay đổi nhưng tình cảm của Nguyễn Du vẫn đáng trân trọng phát huy. Vì có đau đớn lòng bởi những điều trông thấy thì mới xây dựng xã hội công bằng, văn minh, có tiến bộ hơn.
Người xưa nhận xét qua không sai, Nguyễn Du viết Truyện Kiều mà như máu chày qua đầu ngọn bút, nước mắt thấm cả trang giấy… và giờ đây vẫn còn thấm cả trong lòng người đọc. Ông thật xứng đáng với danh hiệu đại thi hào của Vỉệt Nam.
TRẦN NHÃ CA (PTTH Chuyên Lê Hồng Phong, TP. Hồ Chí Minh)

☘️ Tổng hợp những đề văn hay nhất về “Truyện Kiều” và hướng dẫn làm bài Đề 8:

Trong bài thơ Bài ca mùa xuân 1961 nhớ đến tác giả Nguyễn Du và Truyện Kiều, nhà thơ Tố Hữu viết:
Trải qua một cuộc bể dâu
Câu thơ còn đọng nỗi đau chân tình
Nổi chìm kiếp sống lênh đênh
Tố Như ơi, lệ chảy quanh thân Kiều.
Hãy giả thích và dựa vào truyện Kiều để chứng minh ý thơ trên.
Bài viết tham khảo
Tác phẩm Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du đã ra đời hơn một trăm năm nay mà vẫn như còn sức sống, vẫn gợi trong lòng người lòng xót thương đối với người phụ nữ xưa. Trong bài thơ Bài ca mùa xuân 1961 nhớ đến Nguyễn Du và tác phẩm truyện Kiều, Tô Hữu viết:
Trải qua một cuộc bể dâu
Câu thơ còn đọng nỗi đau chân tình
Nổi chìm kiếp sống lênh đênh
Tố Như ơi, lệ chảy quanh thân Kiều
Qua tác phẩm của mình, Nguyễn Du đã khái quát lên nỗi đau của con người trong xã hội phong kiến qua hình tượng Thuý Kiều với cuộc đời lênh đênh trôi nổi. Trải qua những biến đổi trong cuộc sống (cuộc bể dâu), những lời thơ của Nguyễn Du còn đọng lại một nỗi đau về nhân tình thế thái, về cuộc đời của con người dưới xã hội đầy rẫy xấu xa. Ngay khi mở đầu Truyện Kiều, đại thi hào đã khái quát:
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
Chứng kiến cuộc sống thay đổi nương dâu thành bể xanh, đau đớn cho mỗi cuộc đời, nên mỗi câu thơ của Nguyễn Du còn đọng nỗi đau nhân tình. Đó là nỗi đau của con người trong xã hội bất công tàn ác. Nỗi đau đó được Nguyễn Du thể hiện rõ nhất qua hình ảnh Thuý Kiều với cuộc đời nổi chìm kiếp sống lènh đênh, đó là cuộc đời mười lăm năm đoạn trường, bị vùi dập của Thuý Kiều:
Là một người con gái tài sắc vào bậc nhất, lại được sinh ra trong gia đình gia giáo, những tưởng cuộc đời Thuý Kiều xuôi chèo mát mái, có ai ngờ Kiều phải trôi nổi suốt mười lăm năm ròng rã. Nguyên nhân cũng bởi đồng tiền trong lòng tham của những kẻ có thế lực. Đồng tiền đã chi phối toàn xã hội. Chỉ vì một lời tố cáo vu vơ mà bọn quan lại, sai nhà bắt bớ Vương ông và Vương Quân rồi hành hạ để đòi đút lót:
Tính bài lót đó luồn đây
Có ba trăm lạng việc này mới xong
Chúng lộng hành, nấp dưới bóng triều đình mục nát để vơ vét, mà lại vơ vét một cách công khai, trắng trợn đầy bỉ ổi
Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham.
Chưa thỏa được lòng tham, chúng còn đánh đập cha và em Thuý Kiều. Thương cha già, thương em dại, Thuý Kiều đành bán mình để có tiền chuộc. Kiều không chỉ bán mình, mà cồn dứt cả mối tình chớm nở cùng Kim Trọng. Nàng đau đớn thốt lên:
Phận sao phận bạc như vôi
Đã đành nước chảy hoa trôi nhỡ nhàng.
Nàng oán trách số phận mình, đau đớn cho mối tình không trọn vẹn, xót xa thay cho cha và em. Nàng đành phải ra đi cùng với Mã Giám Sinh, kẻ đã bỏ ra hơn bốn trăm lạng vàng để mua nàng. Sa chân vào lầu xanh, Kiều nhất quyết giữ trọn danh dự, phẩm hạnh, thế nhưng Kiều lại mắc mưu Tú bà, nàng đành chua xót thốt lên:
Thân lươn bao quản lấm đầu
Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa.
Thật cay đắng làm sao cho số phận của người con gái, ngay cả cái trinh bạch, trong trắng mà cũng phải “xin chừa”, không dám giữ. Cái xã hội ấy mới thật là độc địa cay nghiệt, cho nên con người cứ mãi mãi đau thương.
Tố Như ơi, lệ chảy quanh thân Kiều.
Thế rồi Thuý Kiều gặp Thúc Sinh, thoát khỏi chôn lầu xanh ô nhục, nàng lại sa vào nanh vuốt của Hoạn Thư, người đàn bà mà nói điều ràng buộc thì tay cùng già. Trong cơn ngứa ghẻ hờn ghen, Hoạn Thư đày đọa Kiều về tinh thần, chia rẽ Kiều với Thúc Sinh, khiến cho chính Kiều cũng phải bàng hoàng, ngơ ngẩn:
Rõ ràng thật lứa đôi ta
Làm ra con ở chúa nhà đôi nơi.
Rồi thương tình Kiều và cũng để cắt đứt tình nghĩa của Kiều với Thúc Kỳ Tâm, Hoạn Thư đưa Kiều ra Quân Âm Các để giữ chùa chép kinh. Hoạn Thư – một đại diện cho tầng lớp quyền thế – đã tước đoạt cuộc sống bình thường của Kiều, tước đoạt của Kiều cái quyền được yêu thương, giam lỏng Kiều vào cửa Phật:
Đưa nàng đến trước Phật đường
Tam qui ngũ giới cho nàng xuất gia
Áo xanh đổi lấy cà sa
Pháp danh lại đổi tên ra Trạc Truyền.
Thế đó, những kẻ có quyền trong xã hội có thể quyết định được cả số phận, tên tuổi và cả cuộc đời của con người ta. Tất cả bọn chúng, từ viên quan, bọn sai nha, Tú Bà, Sở Khanh… đều cùng một giuộc, cùng a dua vùi dập kẻ thế cô, xô đẩy cuộc đời của con người đến tận vực thẳm, bởi vì:
Trong tay đã sẵn đồng tiền
Đầu lòng đổi trắng thay đen khó gì.
Đồng tiền dơ bẩn là nguyên nhân tất cả. Chính đồng tiền ấy làm bậc thanh quyền lực, làm cán cân của công lí. Sau bao ngày tháng tủi nhục ê chề Kiều gặp được Từ Hải, đời tưởng như dã hết truân chuyên, đã hết trôi nổi, bơ vơ, bởi vì Từ Hải thực sự quí trọng Kiều, quí trọng cái phẩm giá cao đẹp mà xã hội không tước đoạt được của nàng. Tưởng chừng như:
Trai anh hùng, gái thuyền quyên
Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng.
Là mãi mãi bên nhau. Nào ngờ đâu Hồ Tôn Hiến, một viên tổng đốc trọng thần lại dùng lễ vật xảo trá dụ dỗ khiến cho Kiều xiêu lòng khuyên Từ Hải ra hàng. Từ Hải chết, đời Kiều lại chìm vào tăm tối quá đau đớn, tuyệt vọng nàng đành phải tự tử.
Cuộc đời Thuý Kiều mà Nguyễn Du đã gói gọn trong hai câu:
Hết nạn nọ, đến nạn kia
Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần.
Không phải chỉ của riêng những Thuý Kiều, Đạm Tiên mà còn là của những con người không quyền lực, không tiền tài trong xã hội đầy bất công. Cái xã hội thối nát chịu sự điều khiển của một kẻ giấu mặt: đồng tiền. Con người, đặc biệt là người phụ nữ sống trong xã hội mà ngay cả quyền tự do, được yêu thương, được sông cũng bị tước đoạt. Những kẻ tước đoạt ấy là những kẻ không có trái tim với dòng máu nóng, mà chỉ có những đồng tiền lạnh lẽo, chúng ta tấn cha, con của Thuý Kiều:
Rường cao rút ngược dây oan
Dẫu rằng đá cũng nát gan lọ người.
Ngay cả đá cũng phải mũi lòng, vậy mà bọn chúng vẫn cứ trơ trơ hơn đá.
Trong cái xã hội rối ren, suy đồi đó, nhân vật Từ Hải nổi lên như một vị cứu tinh cho những cuộc đời cực khổ, vậy mà lại phải nhận lấy cái chết, dù cho là cái chết hiên ngang:
Trơ như đá, vững như đồng
Ai lay chẳng chuyển ai rung chẳng rời.
Trong cái xã hội đen bạc đó, ngay cả cửa Phật từ bi cũng không cứu vớt được đời Kiều, không giúp cho Kiều thoát khỏi vòng lẩn quẩn xoay vòng của nhục nhã, đau thương.
Chính tất cả những cái đó đã đọng lại vào thơ của Nguyễn Du, dọng lại tất cầ nỗi đau nhân tình thế thái, nỗi đau của những cuộc đời. Ngay từ nhỏ, Nguyễn Du đã chứng kiến cảnh người kĩ nữ mua vui cho bọn quan lại trong triều đình khi cô gái đó đang để tang. Vì vậy, Nguyễn Du đã thương xót cho Thuý Kiều. Nhiều lúc, nỗi thương xót đó bật lên thành lời trực tiếp. Khi Thuý Kiều bị Tú bà đánh đập, Nguyễn Du đã xót xa:
Xót thay đào li một cành
Một phen mưa gió tan tành một phen.
Nguyễn Du thương cho người con gái vì cảnh nhà, vì đạo hiếu làm con mà chấp nhận lấy đau thương riêng một mình. Rồi khi Thuý Kiều sa vào lầu xanh ở Châu Thai, Nguyễn Du đã căm tức:
Chém cha cái số hoa đào
Gỡ ra rồi lại buộc vào như chơi.
Ông đã thét lên với tất cả những căm phẫn của mình dồn nén bấy lâu nay. Ông lại thương cho Thuý Kiều khi nàng tự tử:
Thương thay cũng một kiếp người
Hại thay mang lấy sắc tài làm chi.
Thương Thuý Kiều bao nhiêu, Nguyễn Du căm ghét xã hội bạc ác hại người bấy nhiêu. Ông vừa xuýt xoa thương xót Thuý Kiều, lại vừa oán giận:
Hồng quân với khách hồng quần
Đã xoay đến thế còn vần chưa tha
Truyện Kiều của Nguyễn Du là thế đó, vừa là nỗi đau của cuộc đời, vừa là nỗi thương xót của Nguyễn Du với con người, với thân phận má đào. Chính điều này làm nên giá trị nhân đạo sâu sắc, lớn lao của khúc Đoạn trường tân thanh, khiến cho tiếng thơ Tố Như vượt thời gian đến với chúng ta và muôn đời sau.
Nhà thơ Tố Hữu đã thấu hiểu giá trị nhân đạo sâu xa của Truyện Kiều và tấm lòng hết sức sâu dậm của thi hào Nguyễn Du khi viết: Câu thơ còn động nỗi đau nhân tình và Tố Như ơi, lệ chảy quanh thân Kiều (Bài ca mùa xuân 1961). Và cuối cùng mối cảm thông và kính trọng sâu sắc ấy, mấy năm sau, Tố Hữu lại viết:
Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời nghìn thu
Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày
(Kính gửi cụ Nguyễn Du)
LÊ THỊ THUÝ HÀ (Trường PTTH Võ Thị Sáu)

Mong rằng bài viết Tổng hợp những đề văn hay nhất về “Truyện Kiều” và hướng dẫn làm bài vừa nêu trên thực sự giúp ích các bạn học sinh viết bài theo phong cách bản thân.

Tags
Show More

Related Articles

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Close