Bài văn hay THPTNGỮ VĂN 11

Chuyên đề Văn học hiện thực 1930 – 1945

Văn học hiện thực 1930 – 1945 của thế kỉ XX khuynh hướng hiện thực ở Việt Nam đã góp thêm tiếng nói tích cực vào sự nhận thức với tinh thần phân tích phê phán các mối quan hệ thối nát trong xã hội đương thời, nhen nhóm thái độ bất bình với thực tại, tỏ lòng thương cảm với những số phận khốn khổ. Trải qua bề dày thời gian, những tác phẩm của thời kì văn học hiện thực phê phán ấy đến nay vẫn nguyên giá trị và luôn có sức ám ảnh với tương lai.

Chuyên đề sẽ giúp tìm hiểu một trào lưu văn học xuất hiện trong thời kỳ phức tạp của lịch sử dân tộc. Mặt khác,  còn giúp các em biết thêm về đội ngũ nhà văn đã định hình thành những phong cách lớn và những sáng tác của họ thực sự là thành tựu của nền văn học Việt Nam thế kỷ XX.

Chương I: Một số vấn đề lí thuyết về văn học hiện thực 30 – 45

1. Giới thuyết về Văn học hiện thực:

1.1. Khái niệm

Về tên gọi đến nay còn nhiều tranh cãi. Trong “Từ điển văn học” Trần Đình Sử ( chủ biên) đã đưa ra hai cách hiểu về thuật ngữ chủ nghĩa hiện thực. Theo nghĩa rộng thuật ngữ chủ nghĩa hiện thực được hiểu là mối quan hệ giữa tác phẩm và hiện thực đời sống bất kể đó là tác phẩm thuộc trường phái, khuynh hướng văn nghệ nào. Với ý nghĩa này, khái niệm chủ nghĩa hiện thực gần như đồng nhất với khái niệm sự thật đời sống, vì tác phẩm văn học nào cũng mang tính hiện thực. Tuy nhiên cách hiểu này chưa mang màu sắc rõ nét của chủ nghĩa hiện thực để phân biệt với chủ nghĩa lãng mạn hay chủ nghĩa cổ điển…Cũng theo nhóm tác giả đó, thuật ngữ chủ nghĩa hiện thực theo nghĩa hẹp chỉ một phương pháp hiện thực, một khuynh hướng, trào lưu văn học có nội dung chặt chẽ, sắc sảo được xác định bởi nguyên tắc mĩ học riêng.

Trong cuốn “Lí luận văn học” do nhóm tác giả Phương Lựu, Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam, La Khắc Hòa, Lê Ngọc Trà, Thành Thế Thái Bình mà phần chủ nghĩa hiện thực phê phán do Phương Lựu đảm nhiệm, sau này được dựng lại trong cuốn “Tiến trình văn học” tập 3 cũng do tác giả chủ biên thì đã đưa ra những cách hiểu khác về khái niệm này. Theo tác giả, “chủ nghĩa hiện thực có khi được dùng không phải với nghĩa một phương pháp sáng tác mà với nghĩa kiểu sáng tác tái hiện”. Còn nếu hiểu “Chủ nghĩa hiện thực theo nghĩa là phương pháp sáng tác thật ra có nhiều dạng. Đó là chủ nghĩa hiện thực thời Phục hưng, chủ nghĩa hiện thực thời Khai sáng, chủ nghĩa hiện thực trong thời phong kiến mạt vận ở phương Đông. Nhưng chủ nghĩa hiện thực thế kỉ XIX ở Tây Âu đạt đến đỉnh cao nhất, cho nên người ta gọi là chủ nghĩa hiện thực cổ điển, và vì cảm hứng chủ đạo của nó là phê phán cho nên theo ý kiến của M.Gorki người ta thường gọi là chủ nghĩa hiện thực phê phán”. Và trong giáo trình đó tác giả khẳng định cách trình bày chủ nghĩa hiện thực như một phương pháp sáng tác.

Theo “Bách khoa toàn thư” Chủ nghĩa hiện thực là một “trào lưu văn học nghệ thuật, là phương pháp sáng tác lấy hiện thực xã hội và những vấn đề có thật của con người làm đối tượng phản ánh”.

Như vậy, các công trình khoa học và các nhà lí luận có uy tín đã đưa ra những cách hiểu của nhiều ý kiến khác nhau về chủ nghĩa hiện thực nhưng tựu trung lại họ đã gặp gỡ nhau ở điểm coi chủ nghĩa hiện thực là một trào lưu văn học, một phương pháp sáng tác nhằm mô tả thế giới như nó là, nhằm triển lãm cuộc sống trong trạng thái trung thực của nó. Đồng thời muốn thực hiện thành công phương pháp này các nhà văn cần tuân thủ nghiêm ngặt các nguyên tắc mĩ học nhất định như:xây dựng những hình tượng điển hình và điển hình hóa các sự kiện của cuộc sống; thừa nhận mối quan hệ hữu cơ giữa tính cách và hoàn cảnh, con người và môi trường sống; coi trọng chi tiết cụ thể và có độ chính xác cao.

1.2.Thời điểm ra đời:

Về thời điểm ra đời của chủ nghĩa hiện thực cho đến nay vẫn có những ý kiến khác nhau. Trong “Từ điển thuật ngữ văn học”( Trần Đình Sử chủ biên) đã trình bày nhiều ý kiến về dấu mốc ra đời của chủ nghĩa hiện thực. Có người cho rằng nguyên tắc phản ánh hiện thực chủ nghĩa hình thành từ thời cổ đại và trải qua các giai đoạn phát triển lịch sử như Cổ đại, Phục hưng, Ánh sáng, thế kỉ XIX…Một số khác thì cho là chủ nghĩa hiện thực xuất hiện từ thời Phục hưng. Nhiều người khẳng định chủ nghĩa hiện thực hình thành từ khoảng những năm 30 của thế kỉ XIX.

Theo “Bách khoa toàn thư” những tác phẩm có tính hiện thực hay giá trị hiện thực đã xuất hiện từ lâu trước khi có chủ nghĩa hiện thực tuy nhiên chủ nghĩa hiện thực với tư cách là một trào lưu, một phương pháp hoàn thiện chỉ xuất hiện vào thế kỉ XIX ở các nước như Anh, Pháp, Ý, Nga sau đó lan rộng ra các nước khác trên thế giới. Và “Bách khoa toàn thư” khẳng định rằng bài tiểu luận đầu tiên có tính chất lí luận về chủ nghĩa hiện thực được viết bởi nhà lí luận Pháp Săngflory vào năm 1857.

Dù rằng các ý kiến còn tranh cãi nhưng không thể phủ nhận được rằng chủ nghĩa hiện thực có đời sống lịch sử phát triển cụ thể và vào những năm 40 của thế kỉ XIX trở đi chủ nghĩa hiện thực trong văn học đã bước sang một giai đoạn phát triển hoàn chỉnh và rực rỡ, mang cảm hứng phân tích mới về hiện thực đó là phê phán. Từ đây chủ nghĩa hiện thực mang tên mới: chủ nghĩa hiện thực phê phán.

Ở Việt Nam, những tác phẩm của văn học trung đại như Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm, thơ Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến…đã phơi bày hiện thực khách quan của cuộc sống. Phải đến Hồ Biểu Chánh, Phạm Duy Tốn…mới khơi dòng cho khuynh hướng hiện thực khi các tác phẩm thể hiện màu sắc phong tục, nếp sống của một số miền đất, một số người. Đến khoảng những năm 30 của thế kỉ XX cây bút hiện thực phê phán Nguyễn Công Hoan là người bắt đầu đi theo khuynh hướng tả chân, lấy cuộc sống hiện thời, lấy cái đã và đang xảy ra làm nội dung tác phẩm. Và từ những năm 1930 đến trước 1945 khuynh hướng văn học hiện thực phát triển rầm rộ, quy mô, nhiều cây bút tài năng đã xuất hiện như Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Đình Lạp…và Nam Cao được đánh giá là người có công đưa văn học hiện thực lên một trình độ mới, trình độ miêu tả tâm lý, khái quát hiện thực.

1.3. Đặc trưng điển hình hóa của chủ nghĩa hiện thực.

Trong các nguyên tắc mĩ học của chủ nghĩa hiện thực thì điển hình hóa là đặc trưng cơ bản để phân biệt chủ nghĩa hiện thực phê phán với chủ nghĩa lãng mạn như X.M.Petorop đã khẳng định “Phạm trù điển hình là phạm trù quan trọng nhất của mĩ học hiện thực”. Điển hình là những nét mang tính bản chất, quy luật, những tính cách quan trọng nhất, nổi bật nhất trong đời sống con người được thể hiện qua sáng tạo của người nghệ sĩ. “Điển hình là một sự khái quát cao của sáng tạo nghệ thuật” (Trần Đình Sử). Chỉ khi nào nhà văn sáng tạo được hình tượng mang màu sắc cái riêng thật sắc nét cá tính, sinh động, là “con người này”, và cái chung lại phải thật khái quát, hơn nữa phải hài hòa cao độ thì mới có điển hình. Nó là kết quả của sự xuyên thấm nhuần nhuyễn giữa cá thể hóa và khái quát hóa ở mức độ cao. Tính điển hình là hình thức biểu hiện ở trình độ cao của hình tượng trong tác phẩm văn học. Trong bức thư gửi nhà văn Hacnet, Enghen có một câu nổi tiếng “Theo ý tôi, đã nói đến chủ nghĩa hiện thực, thì ngoài sự chính xác của các chi tiết, còn phải nói đến sự thể hiện những tính cách điển hình trong những hoàn cảnh điển hình”. Như vậy vấn đề điển hình không chỉ gắn với chủ nghĩa hiện thực mà còn thể hiện trên hai bình diện: tính cách điển hình và hoàn cảnh điển hình. Tính cách điển hình là sự thống nhất hữu cơ giữa những đặc tính phổ biến và những đặc tính cá biệt, đặc thù trong một nhân vật.

Do đó, nhân vật điển hình của văn học theo nhà phê bình Belinxki là “người lạ quen biết”, là “nhân vật mà tên của nó trở thành danh từ chung”, còn Lỗ Tấn phát biểu hóm hỉnh rằng “Nhân vật của ông có tà áo Nam Kinh, cái cúc Chiết Giang, cái miệng Thượng Hải và đôi mắt Phúc Kiến”.

Tính khái quát của hình tượng nhân vật, tính chung của điển hình mà các nhà văn hiện thực từng quan niệm là ”con người lắp ghép, vai chắp vá” đã được Lỗ Tấn phát biểu trong ”Tạp văn tuyển tập” ”Lấy ở mỗi người một nét, cho nên trong số những người liên quan đến tác giả, không thể tìm ra ai giống như thế. Nhưng vì lấy ở mỗi người một nét, nhiều người thấy phần nào lại giống mình, và cũng dễ làm cho nhiều người phát cáu”. Trong ”Phòng trưng bày vật cổ” Banzac đã cho rằng ”Muốn vẽ một hình tượng đẹp thì mượn dùng cánh tay của người mẫu này, chân của người mẫu kia, ngực của người mẫu nọ và đôi vai của người mẫu khác nữa”. Nhờ sự khái quát hóa ấy, tính cách nhân vật sẽ ”tiêu biểu cho các giai cấp và các trào lưu nhất định, do đó, tiêu biểu nhất định cho các tư tưởng nhất định của thời đại”. (Angghen).

Bên cạnh tính chung, khái quát hóa, nhân vật điển hình phải có tính riêng, cá thể hóa cao độ, khiến nhân vật vừa quen vừa lạ. Cá thể hóa nhân vật không phải là để nhân vật làm những việc độc đáo kì lạ mà bản chất, tính cách riêng của nhân vật vẫn được bộc lộ thông qua cách làm độc đáo đối với những sự việc bình thường. Khi có tính cá thể hóa nhân vật tự thân trở nên sinh động, hấp dẫn, chẳng thế mà các nhà hiện thực nổi tiếng luôn ám ảnh về nhân vật của mình, như Nguyễn Công Hoan khắc khoải về người nông dân điêu đứng vì nạn tranh cướp ruộng đất của bọn cường hào ác bá, còn Ngô Tất Tố day dứt với số kiếp long đong lận đận vì nạn sưu thuế của người nông dân. Đến Nam Cao – đại diện xuất sắc cho chủ nghĩa hiện thực phê phán giai đoạn 30-45 ám ảnh về người nông dân không chỉ rơi vào cảnh bần cùng hóa mà đau đớn hơn khi bị lưu manh hóa, tha hóa về nhân cách. Như vậy, nếu như tính chung đòi hỏi nhà văn dám xông vào giữa cuộc đời để nắm bắt thì tính riêng đòi hỏi nhà văn có khả năng phân tích, xử lý những biến thái tinh vi trong tâm lý nhân vật. Để hình tượng mang tính khái quát hóa nhà văn cần có vốn sống phong phú nhưng để hình tượng độc đáo, sinh động thì đòi hỏi nhà văn phải có khả năng sáng tạo.

Để xây dựng được chân dung điển hình vừa mang cái riêng sắc nét, vừa mang cái chung khái quát cao, là sự thống nhất của tính cá thể hóa và khái quát hóa, nhà văn luôn có ý thức đặt nhân vật trong quan hệ nhiều chiều, trong hoàn cảnh cụ thể, trong cái nhìn vừa tương phản, vừa tương đồng tạo ra tính đối thoại sâu sắc.

2. Văn học hiện thực Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945.

2.1.  Bối cảnh lịch sử xã hội Việt Nam những năm 1930-1945.

Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1929 – 1933: Thực dân Pháp ra sức vơ vét, bóc lột để bù đắp cho những thiệt hại của chúng: chúng tăng thuế, bắt phu, bắt lính, lạm phát giấy bạc. Đông Dương trở thành một thị trường tiêu thụ của Pháp. Ngày 9/2/1930 cách mạng tư sản thất bại. Giai cấp tư sản một mặt mâu thuẫn với đế quốc phong kiến, một mặt lại phụ thuộc vào chúng. Địa vị kinh tế non yếu khiến tư sản dân tộc mất hết khả năng chiến đấu. Đường lối chính trị chủ yếu của họ là cải lương. Tư sản dân tộc phần lớn do địa chủ chuyển thành hoặc gắn liền với địa chủ thành thứ tư sản địa chủ khiến cho thái độ chống phong kiến không dứt khoát. Họ đã tiến hành bạo động nhưng thất bại, trí thức tiểu tư sản trở nên hoang mang, tìm đường thoả hiệp với thực dân, một số thực hiện nhiệm vụ giải phóng dân tộc bằng con đường văn chương.

Tháng 9/1939 chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, mặt trận dân chủ tan vỡ, bọn thống trị ở Đông Dương thủ tiêu mọi quyền tự do dân chủ mà nhân dân ta vừa giành được, Đảng phải rút vào bí mật. Thời kỳ này phong trào cách mạng lên cao, cả nước sục sôi chuẩn bị vũ trang khởi nghĩa. Tháng 8/1945 dưới sự lãnh đạo của Đảng, cách mạng Việt Nam giành được thắng lợi, thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.

2.2. Những chặng đường phát triển
a. Chặng đường từ 1930 đến 1935:

Văn học hiện thực với những sáng tác của Nguyễn Công Hoan, tập truyện “Kép Tư Bền”; Vũ Trọng Phụng – các phóng sự “Cạm bẫy người” và “Kĩ nghệ lấy Tây”… đã thể hiện tinh thần phê phán tính chất bất công, vô nhân đạo của xã hội đương thời, đồng thời bộc lộ sự cảm thông thương xót đối với những nạn nhân của xã hội đó.

b. Chặng đường từ 1936 đến 1939:

Do tình hình xã hội có nhiều thuận lợi cho sự phát triển của văn học hiện thực, các cây bút hiện thực chủ nghĩa như Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố… đã đạt tới độ chín tài năng, liên tiếp cho ra đời những tác phẩm xuất sắc. Hàng loạt các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng như: Giông tố, Số đỏ, Vỡ đê…., nhiều truyện ngắn xuất sắc và tiểu thuyết như “Bước đường cùng” của Nguyễn Công Hoan… đều tập trung phê phán tố cáo mãnh liệt những thủ đoạn áp bức bóc lột, chính sách bịp bợm, giả dối của giai cấp thống trị, đồng thời phơi bày nỗi thống khổ của nhân dân với thái độ cảm thông sâu sắc. Cảm hứng phê phán đã hướng ngòi bút Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố vào việc khắc hoạ những nhân vật điển hình phản diện có ý nghĩa phê phán quyết liệt.

c. Chặng đường từ 1940 đến 1945:

Cảm hứng phê phán vẫn là chủ đạo song có thêm những nét đặc sắc mới được thể hiện nổi bật nhất trong những sáng tác của Nam Cao. Nếu Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố thiên về tả thực phản ánh xã hội đương thời thì Nam Cao không chỉ miêu tả mà còn phân tích lí giải những hiện tượng, những vấn đề của hiện thực đó. Ngòi bút Nam Cao luôn có xu hướng phân tích xã hội qua việc phân tích tâm lý nhân vật. Có thể nói, đến Nam Cao, cảm hứng phê phán đã trở thành cảm hứng phân tích phê phán.

Như vậy, văn học hiện thực phê phán Việt Nam trải qua ba chặng đường phát triển và đã đạt được thành tựu xuất sắc ở giai đoạn cuối. Dòng văn học này thực sự đã góp phần không nhỏ vào công cuộc hiện đại hoá nền văn học dân tộc.

2.3. Những thành tựu nổi bật của văn học hiện thực 1930 – 1945

a. Thành tựu về nội dung

Chủ nghĩa hiện thực phát triển trong khoảng mười lăm năm nhưng đã xuất hiện nhiều tên tuổi lớn như: Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng, Nam Cao… Tác phẩm của họ là những bức tranh đậm nét về đời sống xã hội đem lại giá trị nhận thức cao cho người đọc. Khi nhắc đến những tác phẩm: Bước đường cùng, Tắt đèn, Bỉ vỏ, Số đỏ, Chí Phèo… Nguyễn Khải đánh giá là những tác phẩm có thể làm vinh dự cho mọi nền văn học. Bức tranh xã hội lúc đó ảm đạm, nhiều bi kịch, nhiều tệ nạn xã hội, làng quê xơ xác, tiêu điều, người nông dân bị đẩy đến đường cùng để rồi liều lĩnh, biến chất, trở thành nạn nhân của xã hội. Ở thành thị, các phong trào do thực dân đề xướng như: “Âu hoá”, “Vui vẻ trẻ trung”, thi thể thao, cải cách y phục…. ngày càng lộ rõ chân tướng và tạo ra nhiều nghịch cảnh. Dòng văn học hiện thực phê phán đã phanh phui, bóc trần bộ mặt xã hội đó.

Các nhà văn hiện thực, lớp trí thức mới vốn xuất thân từ tầng lớp trung lưu, thậm chí trong những gia đình nghèo, vất vả kiếm sống. Vì thế mà họ gần gũi, thấu hiểu và đứng về phía người lao động để miêu tả qua những trang viết.

Về quan hệ giữa văn học và cuộc sống, Nam Cao đã có những luận điểm sâu sắc. Trong tác phẩm “Trăng sáng” nhân vật Điền đã đi từ quan điểm nghệ thuật lãng mạn đến quan điểm nghệ thuật của chủ nghĩa hiện thực: “Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối. Nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than”. Còn trong “Đời thừa”, qua nhân vật Hộ, Nam Cao khẳng định thiên chức nhà văn. Hộ hiểu rất rõ trách nhiệm của người cầm bút, Hộ có lương tâm nghề nghiệp nhưng vì miếng cơm manh áo mà anh phải đi ngược lại nhưng sau đó anh tự cảm thấy tủi nhục vì phải sống đời thừa.

b. Thành tựu nghệ thuật

Văn học hiện thực 1930 – 1945 đã tạo dựng được những chân dung nhân vật có tầm khái quát cao, lại rất chân thực và sinh động, vừa mang ý nghĩa xã hội vừa có giá trị thẩm mĩ độc đáo, đó là nhân vật điển hình.

Bên cạnh những thành công trong việc xây dựng điển hình sắc nét, văn học hiện thực phê phán còn đạt đến chiều sâu phân tích tâm lí nhân vật. Các nhà văn tiêu biểu như Nam Cao, Tô Hoài, Kim Lân…

Nhà văn đạt tới thành công hơn cả ở nét nghệ thuật này là Nam Cao. Nhân vật trong truyện của ông có chiều sâu tâm trạng, có dòng tâm lí, có đối thoại nội tâm. Nhiều tác phẩm có cấu trúc tâm lí độc đáo như “Sống mòn”, “Đời thừa”, “Chí Phèo”.

Nhìn chung, các nhà văn hiện thực trong giai đoạn này đã hiểu rõ thiên chức của mình. Họ chủ động trên những trang viết, có vốn sống phong phú. Kiến thức rộng để có thể tạo được hiệu quả nghệ thuật cao nhất.

2.4. Cảm hứng chủ đạo của văn học hiện thực phê phán 1930 – 1945

Văn học hiện thực 1930 – 1945 vận động trên dòng phát triển của thời cuộc. Sống và viết trong giai đoạn có nhiều biến động về lịch sử, các nhà văn hiện thực phải nhạy bén nhận thức những chuyển biến xã hội. Hiện thực phong phú của đời sống đã làm nảy sinh cảm hứng sáng tạo ở người nghệ sĩ. Mỗi nhà văn nhận thức và phản ánh hiện thực theo một cách cảm hứng riêng.

Cảm hứng trào phúng được xem là chủ đạo trong nhiều tác phẩm của Nguyễn Công Hoan và Vũ Trọng Phụng. Tuy nhiên, cảm hứng chủ đạo trong các sáng tác hai nhà văn này cũng có nét khác nhau.

Với Nguyễn Công Hoan, cảm hứng ấy là sự phê phán kịch liệt xã hội thực dân phong kiến đương thời với những sản phẩm thối nát của nó. Đồng thời là thái độ bênh vực những người nghèo khổ. Qua những truyện ngắn trào phúng của mình tác giả làm nổi bật thực trạng xã hội Việt Nam trước cách mạng xây dựng trên sự bóc lột của người giàu đối với người nghèo, phơi bày tất cả sự giả dối, những mâu thuẫn trớ trêu, nghịch cảnh phi đạo lí. Tiếng cười trào phúng đã đánh trúng vào bọn thực dân tư, tư sản và bọn nhà giàu ở thành thị, bọn cường hào ác bá ở nông thôn, bọn quan lại ở các phủ huyện. Ông đặc biệt căm ghét bọn quan lại ôm chân đế quốc để kiếm ăn trên lưng những kẻ nghèo hèn. Những truyện ngắn trào phúng có tính đả kích sâu cay của Nguyễn Công Hoan như: “Đồng hào có ma”, “Tinh thần thể dục”

Dưới con mắt của nhà văn trào phúng bậc thầy Vũ Trọng Phụng, cuộc đời như một tấn bi hài kịch. Ở tiểu thuyết “Số đỏ”, nghệ thuật trào phúng đã chứng tỏ ở Vũ Trọng Phụng một bản lĩnh nghệ thuật già dặn, một tài năng nghệ thuật độc đáo. Cảm hứng ấy chính là lòng căm thù mãnh liệt đối với bọn thực dân, quan lại, địa chủ, tư sản… những loại người đểu giả và lố lăng. Mặt khác, còn là niềm say mê khám phá các thói tật, các mặt xấu, những cái vô nghĩa lý đáng cười ở con người. Với tài nghệ bậc thầy Vũ Trọng Phụng đã làm bùng lên trên sân khấu đại hài kịch “Số đỏ” tiếng cười mỉa mai, hài hước, khi châm biếm, đả kích, khi căm phẫn hằn học cái xã hội bẩn thỉu, giả dối, vô luân. Có thể nói lòng căm thù chính là sức mạnh nghệ thuật của tài năng văn chương ở nhà văn mệnh yểu này.

Văn học hiện thực phê phán 1930 – 1945 cùng với cảm hứng trào phúng còn có cảm hứng bi kịch cũng được xem là cảm hứng chủ đạo. Cảm hứng ấy thấm nhuần trong các sáng tác của Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Nam Cao. Trong “Tắt đèn”, nhà văn không chỉ quan tâm tới nỗi khổ lớn của người nông dân về mặt vật chất mà còn đặc biệt quan tâm tới nỗi khổ về tinh thần của họ. Cảm hứng bi kịch thấm đẫm trong từng trang viết của nhà văn. Ngòi bút nhân đạo của Ngô Tất Tố tập trung thể hiện tấn bi kịch tâm hồn với những tình cảm phong phú, sâu sắc của chị Dậu, người phụ nữ giàu lòng vị tha, yêu chồng, thương con hết mực bị đẩy vào hoàn cảnh éo le. Để có tiền nộp sưu, cứu chồng khỏi hoàn cảnh cùm trói chị đã dứt ruột bán đứa con mình. Không có nỗi đau nào lớn hơn như thế nhưng chị đã không thể làm khác. Cảm hứng bi kịch khiến Ngô Tất Tố đã xoáy sâu vào cảnh bán con…Chính lúc này chị Dậu mới phát hiện ra ở đứa con của mình đức tính mà lúc thường chưa bộc lộ hết. Còn cái Tí càng thương cha, càng quyến luyến lũ em, nó càng nhận ra tình thế không sao tránh khỏi bị đem bán của mình. Ban đầu nó van xin, khóc lóc rồi khi hiểu ra nó cắn răng chịu đựng, chấp nhận để mẹ bán cho nhà Nghị Quế. Tác giả đã sử dụng thủ pháp kéo căng thời gian nghệ thuật để làm dậy lên những tình cảm xót thương trong lòng người đọc.

Nguyên Hồng vốn là một nhà văn hay đa sầu đa cảm. Trong sáng tác của mình ông đã thể hiện sâu sắc nỗi đau khổ uất ức của người dân lao động nghèo, trước hết là người phụ nữ và trẻ em bất hạnh. Ở Nguyên Hồng có một tình cảm vừa nồng nàn, sôi nổi, vừa mãnh liệt, thống thiết đối với người cùng khổ, qua đó thể hiện niềm tin của mình vào phẩm chất tốt đẹp ở người lao động. Có thể nói, trên những trang viết của Nguyên Hồng nồng nàn hơi thở của đời sống cần lao.

Viết văn bằng sự tỉnh táo của lí trí và sự yêu thương tha thiết của trái tim, cảm hứng chủ đạo trong sáng tác của Nam Cao là niềm khát khao đến cháy bỏng làm sao để con người được sống xứng đáng với hai chữ CON NGƯỜI. Đó là được sống lương thiện, được phát huy khả năng của loài người chứa đựng trong mỗi con người. Mong muốn này đã dẫn đến nỗi đau khôn nguôi trước tình trạng con người bị xúc phạm về nhân phẩm, bị huỷ hoại về nhân tính, bị bóp chết những ước mơ, bị đẩy vào tình trạng sống mòn, không lối thoát. Từ khát vọng về một cuộc sống có ý nghĩa mà dưới cái nhìn của Nam Cao nhân loại đang lâm vào tình trạng huỷ hoại về nhân tính, chết ngay khi đang sống. Cảm hứng chủ đạo này đã chi phối cả thế giới nhân vật trong sáng tác của nhà văn.

Cảm hứng chủ đạo của văn học hiện thực 1930 – 1945 khá đa dạng. Trong sáng tác của mỗi nhà văn hiện thực, cảm hứng chủ đạo cũng có những tính chất, đặc điểm khác nhau. Tất cả đều hướng đến tập trung thể hiện bản chất thối nát,tính chất vô nhân đạo của xã hội Việt Nam trước cách mạng, thái độ phê phán xã hội dẫn tới yêu cầu khách quan phải thay đổi. Điều này cho thấy mặt tích cực, tiến bộ của trào lưu văn học này.

3. PHẦN KẾT LUẬN

Văn học hiện thực 1930 – 1945 vận động trên dòng phát triển của thời cuộc. Sống và viết trong một giai đoạn có nhiều biến động, các nhà văn hiện thực phải nhạy bén nhận thức những chuyển biến của xã hội. Nhưng dù xã hội có thay đổi như thế nào thì những trang viết về cuộc đời vẫn sống mãi vì nó có tiếng nói riêng.

Dòng văn học hiện thực với sự xuất hiện của những nhà văn mới như Nam Cao, Tô Hoài, Kim Lân càng làm cho văn học có thêm những phẩm chất và giá trị mới. Khi nào ở đâu trong xã hội vẫn còn những bất công, đau khổ, còn có buồn chán và bế tắc thì ở đó còn cần phải được phê phán. Sự xuất hiện những tác phẩm mang màu sắc tự truyện của một số cây bút tiêu biểu đã góp phần làm cho văn học trở nên chân thực và gần gũi.

Nhìn chung văn học giai đoạn này đã phản ánh đúng đặc trưng của thời đại góp phần không nhỏ vào công cuộc hiện đại hoá nền văn học nước nhà.

Văn học hiện thực 1930 - 1945 Chuyên đề Văn học hiện thực 1930 – 1945
Văn học hiện thực 1930 – 1945

Chương II: Một số đề thực hành luyện tập

Đề bài 1: Trong truyện ngắn Trăng sáng, Nam Cao viết:

Chao ôi! Nghệ thuật không cần phải ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than…” và ở truyện ngắn Đời thừa ông cho rằng một tác phẩm có giá trị phải “chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình…Nó làm cho người gần người hơn”.

Còn Vũ Trọng Phụng, khi đáp lời báo Ngày nay của Tự Lực văn đoàn, đã nói: “Các ông muốn tiểu thuyết cứ là tiểu thuyết. Tôi và các nhà văn cùng chí hướng như tôi muốn tiểu thuyết là sự thực ở đời”.

Anh, chị hãy bình luận những ý kiến nêu trên.

Gợi ý

1.1.Mở bài:

– Là một hình thái ý thức xã hội, văn học nghệ thuật bám chặt lấy sự sống để lớn lên và với tư cách là đứa con tinh thần, nó lại trở về noi sinh ra nó để góp phần khám phá, hiểu biết và sáng tạo đời sống. Nghĩ về văn học và hiện thực đời sống, trong truyện ngắn Trăng sáng, Nam Cao viết: “Chao ôi! Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có thể là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than…”Khi đáp lời báo Ngày nay của Tự lực văn đoàn, Vũ Trọng Phụng đã nói: “Các ông muốn tiểu thuyết cứ là tiểu thuyết. tôi và các nhà văn cùng chí hướng nhưng tôi muốn tiểu thuyết là sự thực ở đời”. Và ở tác phẩm Đời thừa, Nam Cao cho rằng: Một tác phẩm có giá trị khi tác phẩm ấy “chứa đựng một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình…Nó làm cho người gần người hơn”.

1.2.Thân bài:
a. Giải thích:

– Cuộc sống là một vườn hoa đầy màu sắc. Như những con ong cần mẫn đi tìm mật cho đời, nhà văn không chỉ đem đến cho người đọc một nội dung có tính thông điệp mà còn mong muốn tác phẩm của mình có sức mạnh làm rung động hàng triệu tâm hồn. Muốn thế phải làm cho người ta tin, mà chỉ tin được nhờ ở sự chân thực. Đó là lí do đơn giản để Nam Cao cho rằng nghệ thuật “không cần” và “không nên là ánh trăng lừa dối”. Ánh trăng cao xa, huyền ảo và thơ mộng thật nhưng làm sao nó có thể lại là sự phản quang của cuộc đời chủ yếu là đói, rét, bệnh tật và bất công? Có người cho rằng cái đẹp là những gì ở bên trên cuộc sống và tác phẩm nghệ thuật chỉ là vẻ đẹp kì diệu của thế giới siêu thoát, thanh cao, là mở đầu và tận cùng của tất cả. Tác phẩm như vậy làm sao có thể rung động được tâm hồn người đọc; bởi lẽ cuộc sống siêu thoát ấy đâu có phải là cuộc sống của họ. Là một nhà văn hiện thực phê phán sống gần tầng lớp cùng đinh, Nam Cao hiểu sâu sắc thế nào là hiện thực đời sống, hiện thực của những ngày thuế thúc, trống dồn, những kiếp người méo mó, tội nghiệp, những cuộc sống mốc, mòn, mục, gỉ ra. Dù anh viết về ai, viết về cái gì thì cũng không nên, không thể quay lưng lại, lẩn tránh cái thực tế đau khổ và lầm than.

– Có bắt rễ vào hiện thực đời sống mà phải là sống thật, văn học mới bền vững và tồn,  tại được. M.Gorki cho rằng: “Người tạo nên tác phẩm là tác giả nhưng người quyết định số phận của tác phẩm lại là độc giả”. Người đọc chỉ ủng hộ và tạo nên số phận tốt đẹp cho những tác phẩm chân chính một khi những tác phẩm ấy đề cập đến hiện thực đời sống đích thực là của họ. Bởi thế Vũ Trọng Phụng mới cho rằng tiểu thuyết là “sự thực ở đời” đến một tác phẩm có sức mạnh còn tuỳ thuộc vào một điều kiện hết sức quan trọng nữa, ấy là khả năng chiếm lĩnh cuộc sống một cách sâu xa của nhà văn. Chỉ có thể tạo nên giá trị của tác phẩm, một khi nghệ sĩ phải sống hết mình, biết nghĩ suy và trăn trở với những nỗi đau của thân phận con người, biết khơi lên từ cuộc sống những vấn đề mà nhiều người không nhìn thấy, biết góp phần kiến giải những hiện tượng xã hội,…bằng toàn bộ vốn liếng tri thức, tình cảm, niềm tin và dũng khí của mình, như A. Muytxê nói: Hãy đập vào tim anh, thiên tài là ở đó. Lênin nói, đại ý: từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn-đó là con đường biện chứng của sự nhận thức hiện thực.

b. Bình luận, chứng minh:
Văn học góp bàn tay nhân ái của mình để góp phần cải tạo con người, cải tạo xã hội, một khi nó chứa đựng cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khởi.

* Hiện thực trong văn học phải là muối của biển. Nó phải được gạn lọc từ hiện thực xô bồ của đời sống xã hội với biết bao hiện tượng đan cài, chồng chéo nhau giữa bao cái có nghĩa và vô nghĩa, tất yếu và ngẫu nhiên, bản chất và hiện tượng. Nhà văn phải biết chọn lọc những cái gì tinh tuý nhất, cốt lõi nhất, cái thần của sự vật, mang tính khái quát và điển hình cao độ, để từ những phát hiện cụ thể ấy, người đọc thấy được những nét bản chất của đời sống, để có thể rút ra được những bài học về triết lí, đạo đức và nhân sinh. Văn học không sao chép thụ động những mảng tủn mủn, nhỏ nhặt của đời sống. Ngược lại, nhìn vào tác phẩm, ta thấy được bản chất cuộc đời ở một điểm sáng hội tụ, nó tiêu biểu và chân thực hơn cả trạng thái tự nhiên và hoàn tàon có thật ở cuộc sống ngoài đời. Người đọc thấy rõ đâu là mâu thuẫn chủ yếu của xã hội thông qua những xung đột văn học trong tác phẩm. Và đó chính là thước đo giá trị và sự trường tồn của tác phẩm văn chương.

* Bằng nghệ thuật của mình, văn học lắng đọng đến tận nơi sâu kín, tiềm ẩn trong con người. Những giọt nước mắt khóc thương cho cuộc đời đau khổ, cho mỗi số phận bị biến dạng,…sẽ làm cho tâm hồn người dân trong sạch hơn lên, tư tưởng và tâm hồn được nâng cao lên về chất, để có thể vượt qua những nhỏ nhặt, tầm thường của cái vị kỉ, để hoà nhập được với cuộc sống tâm hồn của đồn loại, đồng cảm với họ, cùng chiến đấu cho sự hoàn thiện của con người, làm cho người gần người hơn. Đó chính là chức năng nhân đạo hoá con người của tác phẩm nghệ thuật.

* Đương nhiên văn học không chỉ nói đến những cái gì mạnh mẽ, lớn lao; không chỉ nói đến lạc quan, chiến thắng. Nó không né tránh việc biểu hiện những mất mát, hi sinh, những bi kịch của đời sống, sự đê tiện,ngu dốt và phản bội của con người trên tư cách công dân cũng như trong cuộc sống riêng tư: trong lao động và đấu tranh, trong quan hệ bạn bè, vợ chồng, trong tình yêu,…Trong quá trình biểu hiện như thế, nhà văn thông qua tác phẩm của mình, đấu tranh cho sự công bình, kêu gọi tình thương và lòng bác ái,…Chính những điều đó tạo nên giá trị của tác phẩm.

Sáng tác của Nam Cao chứng tỏ khả năng lĩnh hội cuộc sống của nhà văn.

– Ông không chỉ thấy cuộc sống đương thời là đói rét, là bệnh tật, mà còn thấy được thảm trạng sự tha hoá của con người, những cuộc đời bị méo mó, xiêu vẹo, biến dạng và cả những cuộc sống “sống mòn” hay chết mòn thì cũng chẳng khác gì nhau cả. từ cuộc đời của một Chí Phèo, một Thị Nở khái quát lên thành cả một “hiện tượng Chí Phèo”, Nam Cao không chỉ nói lên nỗi đau đớn về thể xác của người nông dân, mà từ đây khơi lên lòng căm phẫn đối với những bất công và những thế lực gây tội ác, kêu gọi mọi người hãy đấu tranh để góp phần giữ lấy những tia sáng lương tri còn le lói, còn chưa tắt hẳn trong cuốc sống tinh thần của kiếp người bị tha hoá, để giữ cho con người không bị biến thành thú vật, để con người đúng là Người với ý nghĩa cao đẹp của nó.

Tôi có đọc được ở một tác phẩm lí luận kinh điển đại ý như thế này: Vũ khí phê phán dĩ nhiên không thể thay thế được sự phê phán bằng vũ khí; chỉ có lực lượng vật chất mới đánh đỗ được lực lượng vật chất; nhưng lí luận cũng có thể trở thành lực lượng vật chất khi nó đã thâm nhập vào quần chúng. Văn học với sức mạnh lớn lao của nó trong việc khám phá, nhận thức và sáng tạo thực tại, luôn được xem là một vũ khí đấu tranh giai cấp. Các lực lượng tiến bộ và phản tiến bộ đều sử dụng văn học làm công cụ để tuyên truyền tập hợp quần chúng. Các nhà văn, nhà thơ của chúng ta cần nâng cao trình độ tư tưởng và năng lực biểu hiện cũng như thái độ trung thực và dũng cảm trong việc phản ánh hiện thực để nâng cao hơn nữa giá trị của tác phẩm. Văn học phải cố gắng phản ánh những “sự thực ở đời” với tất cả sự đa dạng và phức tạp của nó, có cả nỗi đau và niềm vui, có cả cái thấp hèn và cao thượng, chứ không phải là những tác phẩm tụng ca xuôi chiều, tô hồng hiện thực mà lảng tránh những nỗi đớn đau của đồng bào, đồng chí. Tác phẩm văn học cùng cần góp phần kiến giải những vấn đề của hiện thực đời sống, đồng thời là tiếng nói dự báo cho những vấn đề của hiện thực xã hội rộng lớn trong tương lai. Như vậy văn học mới làm được chức năng giáo dục con người bằng con đường tình cảm, mới góp phần làm cho con người với đúng nghĩa của nó: không là thánh cũng không trở thành thú. Những tác phẩm văn học bắt nguồn từ những ánh trăng mờ ảo, thơ mộng và dối lừa, những tiểu thuyết chỉ là tiểu thuyết, quay lưng hay bàng quan trước sự thực cuộc đời thì những tác phẩm ấy hoàn toàn không có ích cho đời sống, con người.

– Đương nhiên văn học có tính độc lập tương đối của nó. Hiện thực trong văn học và hiện thực ngoài cuộc đời không phải là hai bàn tay úp kít vào nhau mà đan cài vào nhau. Ở đây mọi sự đơn giản hoá và mô hình hoá, mọi sự áp đặt, mệnh lệnh, khiên cưỡng “đeo chân cho vừa giày” đều là những điểm nên tránh. Chúng ta phản bác những lập luận và sáng tác của những trường phái siêu thực, hiện sinh, cũng đồng thời phê phán cách biểu hiện của những tác phẩm cứ tưởng như được viết bằng phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa nhưng thực chất không biểu hiện được cuộc sống, chỉ biết ca tụng một chiều, giấu giếm nỗi đau; những tác phẩm đã không nói được thực trạng của hiện thực đương thời, càng không thể có chức năng dự báo.

– Aimatôp cho rằng: chân lí trong nghệ thuật không chỉ là sự phơi bày những thiếu sót và khó khăn, những mặt tốt của cuộc sống chúng ta; mà quan trọng hơn, tác phẩm nghệ thuật phải có khả năng thôi thúc con người suy tư sâu sắc, bắt con người phải xúc động tận đáy lòng.

Văn học làm cho con người nhận rõ diện mạo của mình hơn, vạch rõ đâu là tốt, xấu, đâu là cao cả, thấp hèn, thấy hết để có thể tự điều chỉnh: “Hãy nhìn xem ngay tại đây, ngay tại chỗ này những gì mà con người còn chưa nhận ra vì một lí do nào đó” (Lời giới thiệu Đoạn đầu đài của Aimatôp).

1.3. Kết bài:

Nhiệm vụ của văn học, của những người sáng tạo ra tác phẩm thật nặng nề. Cuộc sống đang ngổn ngang, bề bộn và có nhiều điều khiển ta nhức nhối, trăn trở. Bởi vậy, chúng ta cần biết bao những tác phẩm văn học đích thực, những chính phẩm, góp tiếng nói cải tạo cuộc sống.

Đề bài 2: Có ý kiến cho rằng “truyện có khả năng phản ánh hiện thực rộng lớn đi sâu vào những mảnh đời cụ thể và cả những diễn biến sâu xa trong tâm hồn con người”. Hãy phân tích hai truyện ngắn “Hai Đứa Trẻ” của Thạch Lam và “Chí Phèo” của Nam Cao để làm sáng tỏ ý kiến trên.

Gợi ý

2.1.Mở bài:

Nhà văn Thạch Lam đã từng quan niệm “đối với tôi, văn chương không phải đem đến cho người đọc sự thoát ly, hay sự quên. Trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta, có thể vừa tố cáo và thay đổi thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người được thêm trong sạch và phong phú hơn”. Đúng như vậy! Văn chương nghệ thuật luôn hướng tới cuộc sống con người, từ đó đưa đến cho chính con người những giá trị cao đẹp, những bài học “trông nhìn và thưởng thức”. Điều đó lại càng đúng đắn hơn với thể loại truyện ngắn, bởi nói như nhà văn Nguyễn Kiên nó “vừa là chứng tích của một thời, vừa là hiện thân một chân lý giản dị của mọi thời”. Bàn về vấn đề này, đã có ý kiến cho rằng “truyện có khả năng phản ánh hiện thực rộng lớn đi sâu vào những mảnh đời cụ thể và cả những diễn biến sâu xa trong tâm hồn con người”. Minh chứng rõ nhất cho quan niệm đó chính là truyện ngắn “Hai Đứa Trẻ” của Thạch Lam và “Chí Phèo” của Nam Cao.

2.2.Thân bài:

a.Giải thích:

– Mỗi loại hình văn nghệ ra đời đều có những tác động riêng đến với con người. Mĩ thuật tạo ra cái đẹp từ những nét vẽ, mảng mầu, âm nhạc đem đến cái hay từ tiếng hát, lời ca. Kiến trúc, ấy gây ấn tượng bởi những thiết kế đến tinh vi… còn văn chương hay cụ thể hơn chính là chuyện đã “có khả năng phản ánh hiện thực rộng lớn”. Điều đó khẳng định, chuyện phản ánh được hiện thực thời đại với những vấn đề nổi cộm, bức thiết nhất trên một phạm vi rộng. Không chỉ vậy, “chuyện còn đi sâu vào những mảnh đời cụ thể”.

– Truyện phản ánh hiện thực nhưng thường không hời hợt, phó quát một cách chung chung, mà luôn hướng đến những mảnh đời, những số phận cụ thể để phản ánh hiện thực. Và ở chuyện còn mang một đặc trưng mà ít tìm thấy ở các thể loại khác, đó là hướng đến, “có những diễn biến sâu xa trong tâm hồn con người”. Truyện thường đi sâu vào thế giới nội tâm để cảm nhận được hết mọi diễn biến trong tình cảm và nhận thức của con người, từ đó khái quát nên giá trị của tác phẩm và khẳng định tài năng của nhà văn. Như vậy, quan niệm về truyện của ý kiến trên đã nêu lên được vai trò cũng như yêu cầu quan trọng với nội dung truyện ngắn. Truyện ngắn là một thể loại ngắn gọn, dung lượng nhỏ nhưng chứa đựng một nội dung sâu rộng. Vì thế nhà văn cần biết nắm bắt, lựa chọn, phản ánh những vấn đề bản chất tiêu biểu, nhưng phải mang tính rộng lớn, phổ cập của hiện thực thông qua những số phận cụ thể, thậm chí cần đào sâu vào nội tâm để biến những trang văn thành trang đời.

– “Truyện có khả năng phản ánh hiện thực rộng lớn, đi sâu vào những mảnh đời cụ thể và cả những diễn biến sâu xa trong tâm hồn con người”. Quan niệm trên hoàn toàn chính xác, bởi nó đã dựa trên cơ sở lý luận của truyện ngắn nói riêng và văn học nói chung. Chuyện thường hướng tới khắc họa một hiện tượng đời sống, một khoảnh khắc nhân sinh, hay một lát cắt hiện thực. Do vậy, chuyện thường có ít nhân vật để nhà văn đi sâu vào khám phá cụ thể. Kết cấu của truyện thường không phức tạp, có chuyện diễn ra trong một thời gian, không gian hạn chế và xoay quanh một tình huống có tính chất chủ đạo. Bởi vậy, tác giả có cơ hội đi sâu vào đời sống nội tâm con người để khám phá. Hơn nữa truyện chứa nhiều những chi tiết cô đúc, lối hành văn mang nhiều ẩn ý cũng góp phần giúp nó biểu thị được tâm lý con người. Truyện ngắn gọn, cô đọng nhưng thể loại truyện có những phẩm chất thẩm mỹ đặc trưng, tập trung vào khoảnh khắc mà ý nghĩa cuộc sống đậm đà nhất, ngắn gọn, hàm xúc mà có khả năng khái quát cao về hiện thực. Phản ánh được bê sâu của đời sống đề sâu tư tưởng và tấm lòng của nhà văn về sâu, về tài năng của người nghệ sĩ ngôn từ. Không chỉ vậy, quan niệm về chuyện trên còn dựa trên từ thiên chức văn học. Dù có những đặc trưng riêng nhưng chuyện vẫn phải hướng đến sứ mệnh của văn học, phản ánh hiện thực nói được những vấn đề nhức nhối của con người, trân trọng những mơ ước, khát vọng, trân trọng vẻ đẹp nội tâm ẩn sâu trong tâm hồn họ. Có thể nói, truyện ngắn “Hai Đứa Trẻ” của Thạch Lam và “Chí Phèo” của Nam Cao chính là hai tác phẩm thể hiện rõ cho đặc trưng của truyện, cũng như minh chứng cho quan niệm trên.

b.Bình luận, chứng minh:

* Bàn về văn học Standal đã viết “văn học là tấm gương đời sống xã hội”. Đúng như vậy! Một tác phẩm văn học chân chính luôn bắt nguồn từ hiện thực đời sống con người. Hiểu được quy luật đó, nên mặc dù là nhà văn lãng mạn hay hiện thực thì Thạch Lam và Nam Cao cùng đề cao yếu tố này trong quá trình sáng tác. Đến với truyện ngắn “Hai Đứa Trẻ” của Thạch Lam ta đã bắt gặp hình ảnh của một phố huyện, một miền đất, miền đời bị quên lãng. Trên cái nền khổ đau, nghèo đói lần lượt hiện ra những kiếp người sống lay lắt, mòn mỏi đến đáng sợ. Đó là chị Tý với gánh hàng nước, đó là bác siêu với những bát phở ế hàng, đó là bác Xẩm với tiếng đàn run lên bần bật, hay đó là chị em Liên với gian hàng ế khách… Kiếp sống của họ diễn ra đều đều, họ chỉ tồn tại chứ không phải là sống, họ như bị bắt sống chứ không phải tự nguyện để sống. Cuộc sống của họ như một màn kịch không có sự thay đổi, người thay đổi cảnh, ngày nào họ cũng hiện ra buồn bã, thiếu sức sống và lặp lại y nguyên hành động ngày hôm trước. Sống trong cái “ao đời phẳng lặng”, đó đã có biết bao mơ ước, bao suy nghĩ bị dìm chết, con người dần dần cũng bị chai sạn, vô cảm dẫn đến lãng quên mịt mù trước cuộc đời.

Hãy đến với “Chí Phèo: của nhà văn Nam Cao, nhà văn phản ánh toàn diện bộ mặt ăn thịt người của xã hội thực dân, với những mối quan hệ trong làng Vũ Đại. Xã hội đó đã đẩy những người lao động chân chất, vào con đường lưu manh hóa dẫn đến bi kịch đau đớn, bị cự tuyệt quyền làm người. Đầu tiên là các mối quan hệ phức tạp ở cái đất “quần Ngư tranh thực”. đứng đầu là cụ Bá Kiến, sau đó là bọn cường hào ác bá và cuối cùng là người dân nghèo khổ ấy, người dân bị những mối quan hệ chi phối. Khi cần lũ cường hào, Ác bá liên kết với nhau, áp bức trong làng, nhưng lúc không cần đến nhau thì “ngấm ngầm cho nhau ăn bàn”. Đó là nguyên nhân dẫn đến nỗi khó khăn, nhọc nhằn của dân làng. Hơn nữa cậy quyền, cậy thế bọn người có thế lực tiêu biểu là cụ Bá Kiến đã đẩy người nông dân vào con đường lưu manh tha hóa mà tiêu biểu là Chí Phèo. Sinh ra vốn là một đứa trẻ bị bỏ rơi, lớn lên trong sự chăm sóc của dân làng Vũ Đại, Chí trở thành một người hiền lành và có lòng tự trọng cao. Nhưng chỉ vì một cơn ghen vô cớ, Chí Phèo đã bị bá kiến để vào tù. Sau 7, 8 năm ra tù, hắn dần dần là một kẻ lưu manh, một thằng răng đá, một con vật lạ, con quỷ dữ mà ai cũng xa lánh. Gặp Thị Nở khao khát hoàn lương nhưng cuối cùng bị từ chối hắn đau đớn, tự vẫn. Hiện thực cuộc sống trong Chí Phèo được Nam Cao phản ánh rất rõ, hình ảnh làng Vũ Đại chính là hình ảnh thu nhỏ của nông thôn Việt Nam trước Cách mạng. Đọc Chí Phèo, ta như được trở về với xã hội với số phận của những con người thời đó vậy.

* Chuyện có khả năng phản ánh hiện thực rộng lớn, nhưng do hạn chế về dung lượng nên chuyện thường “đi sâu vào những mảnh đời cụ thể”. Điều đó vừa giúp tư tưởng, chủ đề được sáng rõ, vừa thể hiện tấm lòng của nhà văn đối với con người. Đến với “hai đứa trẻ”, Thạch Lam đã đi sâu khám phá cuộc sống con người, mà tiêu biểu là liên một đứa trẻ nghèo. Khi còn nhỏ Liên sống ở Hà Nội, dù không phải giàu có nhưng cũng được sung sướng “được đi chơi bờ Hồ, uống những cốc nước xanh đỏ”. Đó là những kí ức đẹp đẽ của Liên mà cô không thể nào quên được. Nhưng do thầy mất việc Liên phải về một Phố huyện nghèo nàn để sinh sống. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc cuộc sống tuổi thơ sung sướng của Liên giờ đã chấm dứt. Cái nghèo đã cướp đi niềm vui và quyền lợi của một đứa trẻ như Liên. Cuộc sống cơm áo gạo tiền đã trói buộc tiên vào với những hàng tre, từ sáng sớm tới đêm khuya. Liên sống mòn mỏi, trông chờ, đợi đến một bát phở trong phố huyện nghèo cũng không dám mơ ước. Nhưng bên cạnh đó, Liên cũng là một đứa trẻ biết yêu thương, cảm động đối với cuộc sống của người khác, mặc dù mình chẳng khá giả gì. Tuy không được miêu tả nhiều như Liên nhưng những mảnh đời như chị tí, bác siêu, bác xẩm, Cụ Phi… cũng góp phần thể hiện được con mắt yêu thương của Thạch Lam.

* Còn đến với Chí Phèo của Nam Cao, những mảnh đời mà ông chú ý đến nhiều chính là người nông dân, với một cuộc sống nghèo khổ đến tận cùng. Nhưng ông khác đặc biệt ở chỗ, ông không đi quá sâu vào cuộc sống ấy, mà ông đi sâu vào quá trình tha hóa của Chí Phèo, là một ví dụ điển hình. Sinh ra bị bỏ rơi ở trước lò gạch cũ, được anh thả ống lươn nhặt về nuôi dưỡng. Chí lớn lên vì được dân làng Vũ Đại nuôi nấng. Tuy tuổi thơ bất hạnh, nhưng chí phèo không xấu xa mà còn rất chăm chỉ, hiền lành và giàu lòng tự trọng. Chỉ vì cơn ghen vô lý bác Kiến, đã đẩy Chí Phèo vào tù. Với sự nhào mặn của nhà tù, Chí Phèo trông khác hẳn. Bề ngoài nhìn như thằng rặng đá “cái đầu trọc lóc, cái răng cao trắng hơn, cái mặt đen mà rất cong cong…”. Không chỉ thay đổi về nhân hình mà chí còn bị nhuộm đen về nhân tính. Hắn chìm trong những cơn say, từ đây hắn đã làm biết bao tội ác với những con người đã nuôi nấng hắn. Chí cứ vậy cho đến khi gặp Thị Nở. Thị đã dẫn Chí về với cuộc sống, nhưng do định kiến từ chối Chí Phèo tuyệt vọng giết chết kẻ thù của cuộc đời mình và cũng tự kết liễu đời mình. Cuộc đời của Chí Phèo là một mảnh đời cụ thể, nhưng đã bao quát được con đường mà những mảnh đời khác thường đi phải như Binh Chức, Năm Thọ… đó chính là cái Quý cái hay mà chỉ có thể loại truyện đó được.

* Mang trong mình những đặc trưng riêng nên chuyện còn có khả năng đi sâu vào “diễn biến sâu xa trong tâm hồn con người”. Đến với truyện ngắn, yếu tố này rất được chú trọng bởi “thước đo tài năng người nghệ sĩ chính là khả năng miêu tả tâm lí nhân vật”. Đọc “hai đứa trẻ” của Thạch Lam. Người đọc dễ dàng nhận ra tâm trạng của nhân vật liên được tác giả chú trọng miêu tả rất chi tiết và tinh tế. Tâm trạng đó được biểu hiện trước hết ở cảnh ngày tàn. Trước những cảnh sác đất trời thay đổi, liên có tâm trạng buồn man mác “rồi mắt chị bóng tối ngập đày dần”. Dường như Liên cảm nhận được cuộc sống đang chậm lại với những chuyển biến tinh tế của tạo hóa. Khi nhìn về con người, Liên động lòng thương những đứa trẻ con nhà nghèo, tuy sợ nhưng vẫn thấy tội cho Cụ Phi và biết chia sẻ với chị tí. Màn đêm buông xuống với sự chiến thắng của bóng tối, Liên dường như lại thấy buồn thấm thía. Thấy đứa những đứa trẻ con khác vui chơi liên thèm thuồng, Nhớ về ngày xưa. Từ chỗ buồn man mác trước giờ khắc của ngày tàn, giờ đây là những quan sát đợi chờ hoài niệm, nuối tiếc và khát khao nhưng đã hoàn toàn bị tàn lụi. Hiện tại và quá khứ như những đợt sóng vỗ vào tâm hồn, để rồi buồn hơn da giết hơn. Để an ủi mình Liên chỉ còn cách nhìn lên bầu trời với ông thần nông, con vịt trời, giải ngân hà… với thế giới cổ tích nhiệm mầu.

Khi đoàn tàu đêm về, cũng là lúc tâm trạng của Liên được bộc lộ rõ nhất. Liên háo hức đợi chờ đoàn tàu như đợi chờ Phút Giao thừa thiêng liêng. Khi nhìn đoàn tàu, Liên không trả lời câu hỏi của em trong tâm hồn cô còn xúc động vẫn chưa lắng xuống “Liên lặng lẽ mơ tưởng Hà Nội xa xăm Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo”. Những câu chữ gieo vui như nốt nhạc. Có thể trong phút giây ấy khát vọng đổi đời đã được đánh thức trong một tâm hồn còn vô tư ngây thơ “tàu đã đem đến một chút thế giới khác đi qua. Một thế giới khác hẳn đối với Liên khác hẳn với ánh sáng ngọn đèn chỉ Tí và ánh lửa bác siêu”. Dù biết Tàu hôm nay không đông, nhưng không sao miễn là họ ở Hà Nội về. Và khi tàu đi Liên vẫn còn đứng nhìn, “thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi không biết như chiếc đèn con của chị tí chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ”.

* Nếu như “hai đứa trẻ” là tâm trạng của Liên trước một thời khắc ngắn ngủi, thì chí phèo diễn ra rất rõ tâm trạng của Chí Phèo khi đã được Thị Nở dẫn về cuộc đời. Sau cái đêm say rượu, Ăn nằm với Thị Nở. Sáng hôm sau tỉnh dậy, Chí Phèo giường như khác hẳn. Hắn cảm nhận được mọi diễn biến, mọi sắc thái bên ngoài cái túp lều ẩm thấp của hắn. Hắn nghe được tiếng chim hót, nghe được tiếng Anh thuyển chài đuổi cá trên sông, tiếng người đi chợ bán vải về. Hắn nghĩ về quá khứ, hiện tại và tương lai. Hắn dường như đang sợ rượu, sợ chính mình và sợ tương lai của mình. Chí Phèo nghĩ đến cái đói, cái rét rồi ốm đau, nhưng còn đáng sợ hơn điều đó chính là cô độc. Và trong cơn suy nghĩ ấy thì chị nở chạy sang với liều thuốc giải cảm và giải rượu, bát cháo hành. Chí cảm động đến rưng rưng nước mắt và ăn cháo hành. Hắn nghĩ chắc những ai đã ăn mới biết cháo hành ngon. Đối với hắn, bát cháo hành đó còn là hương vị tình thương dẫn hắn về với quãng đời lương thiện. Hắn lại trở về với ước mơ ngày xưa, có một gia đình nho nhỏ “chồng cuốc mướn cày thuê vợ dệt vải”. Chao ôi! đọc xong ta mới hiểu Chí Phèo tâm tình biết bao. Nhưng khi bị Thị Nở từ chối, lúc đầu không hiểu nhưng sau hắn nhận ra, Chí Phèo ôm mặt khóc rưng rức. Chí Phèo hiểu được bi kịch của cuộc đời mình. Hắn như cứ ngửi thấy hương cháo hành thoang thoảng, hắn tìm đến rượu mong quên đi mọi thứ, nhưng càng uống, càng tỉnh, càng tỉnh càng đau đớn, tuyệt vọng. Chỉ định tìm đến giết chết “con đĩ nở” và con “khọm già” nhà nó nhưng bước chân lại đưa chí đến nhà Bá Kiến. Chí Phèo rút dao giết lão Bá Kiến và cũng kết liễu luôn đời mình. Chính chân lý đã đưa Chí Phèo hiểu ra được cuộc đời mình, nên tuy Chí Phèo có chết cũng là minh chứng cho sự trở về với lương thiện, không muốn làm kiếp thú vật.

* Hai nhà văn, với hai phong cách và xu hướng khác nhau, nhưng Thạch Lam và Nam Cao đều thể hiện được những đặc trưng của truyện qua các sáng tác của mình. Quan niệm chuyện có khả năng phản ánh hiện thực rộng lớn, đi sâu vào những mảnh đời cụ thể và cả những diễn biến sâu xa trong tâm hồn con người, không chỉ nêu lên đặc trưng của truyện, mà còn đặt ra yêu cầu đối với người sáng tác và Tiếp nhận văn chương. Đối với người cầm bút, phải không ngừng mài dũa tài năng khổ luyện trong lao động chữ nghĩa, gắn bó sâu sắc với cuộc đời và con người. Đối với độc giả, để có thể tiếp nhận, khám phá được bề sâu của tác phẩm, độc giả phải sống hết mình với tác phẩm. Tích cực đồng sáng tạo cùng với nhà văn.

2.3. Kết bài:

Thanh Thảo đã từng cho rằng “văn chương giúp ta trải nghiệm cuộc sống ở những tầng và chiều sâu đáng kinh ngạc”. Văn chương nói chung và thể loại truyện nói riêng của thật đã làm được điều đó. Bởi vì, nó đã phản ánh hiện thực đi sâu vào mảnh đời cụ thể và cả những chuyển biến sâu xa trong tâm hồn con người, từ đó thể hiện tấm lòng cao cả của mỗi nhà văn. Chính vì vậy nên “hai đứa trẻ”, của Thạch Lam và “Chí Phèo” của Nam Cao xứng đáng là hai truyện ngắn đặc sắc, sống mãi với thời gian, đến với bạn đọc cả hôm nay và mai sau.

Đề bài 3: Nhà phê bình văn học Nga Biêlinxki định nghĩa: điển hình nghệ thuật như là “một người lạ mặt quen biết”. Anh (chị) hiểu điều đó như thế nào? Bằng một số điển hình văn học trong các tác phẩm văn học hiện thực giai đoạn 30 – 45, hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.

HƯỚNG DẪN

  1. YÊU CẦU CHUNG:

– Nắm vững phương pháp, kĩ năng làm bài nghị luận văn học.

– Biết vận dụng kiến thức lí luận văn học để giải thích vấn đề một cách chính xác, rõ ràng.

– Chọn được những điển hình văn học tiêu biểu để phân tích, lám sáng tỏ vấn đề một cách thuyết phục.

  1. YÊU CẦU CỤ THỂ:

Một số ý cần đạt :

2.1. Giải thích vấn đề :

*. Ý nghĩa câu nói :Định nghĩa của Biêlinxki thực chất nêu lên nét chung và nét riêng, tính phổ quát và tính cá biệt của điển hình nói chung và điển hình văn học nói riêng.

+ “Người lạ mặt”: là nét riêng ,nét cá biệt, nét độc đáo mà nhìn vào đó ta có thể phân biệt đươc với nhân vật khác- đó là “con người này”(Hêghen).

+”Người lạ mặt” nhưng “quen biết” là do những nét chung, nét phổ quát của điển hình nghệ thuật. Điểm chung đó giúp ta nhận ra một loại người, một tầng lớp, một giai cấp, một dân tộc với những đặc điểm, phẩm chất đặc trưng.

* Giải thích lí do:

– Điển hình nghệ thuật là hình ảnh chủ quan của hiện thực khách quan. Bước vào tác phẩm, hiện thực ấy mang đậm dấu ấn sáng tạo, qua lăng kính chủ quan của người nghệ sĩ. Như vậy, do yêu cầu của tính riêng về phong cách cá nhân, mỗi điển hình nghệ thuật phải thể hiện được nét độc đáo, mới mẻ,từ nội dung đến hình thức, để phân biệt với hình tượng khác.

– Sự sáng tạo của người nghệ sĩ vô cùng quan trọng, song hình tượng nghệ thuật do nghệ sĩ sáng tạo không phải chỉ để cho riêng mình, mà còn là để nói hộ người khác. Do đó, điển hình nghệ thuật bao giờcũng phải mang tính khái quát cao, nó phải phản ánh được đặc điểm, tâm lí, tính cách, tư tưởng và nguyện vọng của một tầng lớp xã hội, một giai cấp hay một loại người nào đó. Điển hình nghệ thuật là người “quen biết”, khi mỗi người đều có thể thấy hình bóng mình trong đó.

– Điển hình nghệ thuật phải hài hoà giữa tính chung và tính riêng, cụ thể và khái quát, cá biệt và phổ quát. Nếu chỉ chú ý tính chung thì hình tượng mất đi tính sinh động, cụ thể, thủ tiêu cá tính sáng tạo của nhà văn, xoá nhoà phong cách riêng độc đáo của nhà văn. Ngược lại, nếu chỉ chú ý tính riêng thì hình tượng sẽ trở nên xa lạ, tính phổ quát sẽ mất, hình tượng sẽ thiếu sức truyền cảm, không tạo được sự đồng điệu, đồng cảm với bạn đọc.

2.2.Phân tích một số điển hình văn học để làm sáng tỏ vấn đề:

Học sinh có thể chọn lựa phân tích một số điển hình văn học trong và ngoài nhà trường, cả VHVN và VHNN miễn sao các hình tượng thực sự là điển hình, có tính cá biệt nhưng cũng mang tầm khái quát cao. (Ví dụ: Chí Phèo, Bá Kiến (“Chí Phèo”- Nam Cao), Xuân Tóc Đỏ (“Số đỏ”-Vũ Trọng Phụng), Hoàng( “Đôi mắt”-Nam Cao)…

(Trương Văn Quỳnh)

Văn học hiện thực 1930 – 1945

Tags
Show More

Related Articles

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Close