Ngữ Văn 8

Qua hình tượng con hổ ” nhớ rừng” Thế Lữ​ đã gửi gắm điều gì ?

Nhớ rừng là một trong những bài thơ hay nhất, tiêu biểu nhất của Thế Lữ và của phong trào Thơ mới (1932-1941). Bài thơ ra đời giữa lúc cuộc bút chiến giữa thơ mới và thơ cũ đang diễn ra hết sức gay gắt. Và sự xuất hiện của Nhớ rừng trên thi đàn đã làm cho cả hàng ngũ thơ xưa phải tan vỡ (Hoài Thanh). 

Bài thơ Nhớ rừng- Thế Lữ​

Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt, 
Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua. 
Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ, 
Giương mắt bé diễu oai linh rừng thẳm, 
Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm, 
Để làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi. 
Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi, 
Với cặp báo chuồng bên vô tư lự. 

Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ, 
Thủa tung hoành hống hách những ngày xưa. 
Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già, 
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi, 
Với khi thét khúc trường ca dữ dội, 
Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng, 
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng, 
Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc. 
Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc, 
Là khiến cho mọi vật đều im hơi. 
Ta biết ta chúa tể của muôn loài, 
Giữa chốn thảo hoa không tên, không tuổi. 

Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối, 
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan? 
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn, 
Ta lặng ngắm giang san ta đổi mới? 
Đâu những bình minh cây xanh nắng gội, 
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng? 
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng. 
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt, 
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật? 
– Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu? 

Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu, 
Ghét những cảnh không đời nào thay đổi, 
Những cảnh sửa sang, tầm thường, giả dối: 
Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng; 
Dải nước đen giả suối, chẳng thông dòng 
Len dưới nách những mô gò thấp kém; 
Dăm vừng lá hiền lành, không bí hiểm, 
Cũng học đòi bắt chước vẻ hoang vu 
Của chốn ngàn năm cao cả, âm u. 

Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ! 
Là nơi giống hùm thiêng ta ngự trị. 
Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa, 
Nơi ta không còn được thấy bao giờ! 
Có biết chăng trong những ngày ngao ngán, 
Ta đương theo giấc mộng ngàn to lớn 
Để hồn ta phảng phất được gần ngươi, 
– Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!

Phân tích bài thơ Nhớ Rừng

Phân tích bài thơ Nhớ Rừng Qua hình tượng con hổ ” nhớ rừng” Thế Lữ​ đã gửi gắm điều gì ?

Nhớ rừng là bài thơ kiệt tác của Thế Lữ, nhà thơ tiên phong của phong trào Thơ mới (1932 – 1941). Với nhạc điệu du dương, với cảnh sắc thiên nhiên tráng lệ, đặc biệt với hình tượng con hổ, bài thơ Nhớ rừng đã chinh phục mỗi chúng ta, đã chiếm lĩnh nơi sâu kín nhất cõi tâm hồn bao người trong hơn nửa thế kỷ qua.

Con hổ được thi sĩ nói đến với bao cảm thông và ngưỡng mộ. Nó đang nằm trong cũi sắt vườn Bách thú. Chúa sơn lâm trong cảnh tù hãm vô cùng cay đắng uất ức căm hờn đã tích tụ, đã chứa chất thành một khối. Không căm hờn sao được khi phải nằm dài, trông ngày tháng dần qua trong cũi sắt? Không uất ức, cay đắng sao được khi chúa sơn lâm đang bị lũ người giương mắt bé giễu oai linh rừng thẳm, đang trở thành thứ đồ chơi, với cặp báo vô tư lự trong vườn bách thảo? Thế Lữ đã thể hiện tâm trạng cay đắng, căm hờn của con hổ mất tựu do đầy ám ảnh:

Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt
Ta nằm dài trông ngày tháng dần qua…
(…), Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm…

Qua đó, ta càng thấy rõ: Hùm thiêng khi đã sa cơ cũng hèn (Truyện Kiều – Nguyễn Du); ta càng thấm thía: trên đời nghìn vạn điều cay đắng- Cay đắng chi bằng mất tự do (Nhật ký trong tù – Hồ Chí Minh).

Năm tháng dần trôi qua, chúa sơn lâm có bao giờ nguôi được nỗi nhớ rừng. Nhớ thuở tung hoành hống hách những ngày xưa.

Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi…

Như tư thế cao sang, oai hùng của ta. Một cái bước chân, một tấm thân lượn sóng, một cái vờn bóng… Tất cả đều dõng dạc, đường hoàng. Một chữ ta vang lên đầy tự hào của chúa sơn lâm:

Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng
Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc.

Quyền uy của ta là tuyệt đối. Mọi vật đều phải khiếp sợ, phải im hơi khi mắt thần của ta đã quắc, ta biết giữa chốn thảo hoa, ta là chúa tể cả muôn loài:

Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc,
Là khiến cho mọi vật đều im hơi.
Ta biết ta chúa tể cả muôn loài,
Giữa chốn thảo hoa không tên, không tuổi

Nỗi nhớ rừng thiêng, nhớ quyền uy… của chúa sơn lâm chính là nhớ những năm tháng không thể nào quên. Nỗi nhớ ấy chính là khát vọng sống, khát vọng tự do cháy bỏng.

Hổ nhớ rừng là nhớ đến những kỉ niệm chói lọi một thời vàng son, một thời oanh liệt. Cảnh vật tráng lệ. Nhạc của thơ cũng là nhạc của rừng.

Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?
Đâu những ngày mưa chuyền bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm cảnh giang sơn ta đổi mới?
Đâu những bình minh cây xanh nắng gội
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt,
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật!
Than ôi! Thời oanh liệt này còn đâu?

Các luyến láy, điệp ngữ: đâu những đêm vàng…, đâu những ngày mưa.. đâu những bình minh…, đâu những chiều…, nay còn đâu? xuất hiện nối tiếp trong năm câu hỏi tu từ tạo nên nhạc điệu du dương, triền miên, da diết, thể hiện sâu sắc tình thương nỗi nhớ của hùm thiêng sa cơ, nhớ rừng, tiếc nuối một thời oanh liệt nay đã trở thành hoài niệm, thành dĩ vãng. Chúa sơn lâm nhớ đêm, nhớ ngày, nhớ bình minh, nhớ chiều tà, nhớ suối, nhớ trăng, nhớ cảnh giang sơn trong màn mưa rừng, nhớ cây xanh nắng gội, nhớ chim hót tưng bừng lúc bình minh, nhớ mặt trời gay gắt trong khoảnh khắc hoàng hôn… Nỗi nhớ tiếc ấy là nỗi đau buồn bị tước đoạt mất tự do, cũng là nỗi khao khát tự do. Thế Lữ đã sáng tạo nên những vần thơ giàu hình tượng và nhạc điệu, dào dạt cảm xúc để thể hiện nỗi nhớ rừng của con hổ… Một tiếng than như xiết lấy lòng người, khêu gợi và lay tĩnh:

Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?

Bị sa cơ, bị tù hãm trong cũi sắt. Phải xa rừng nên nhớ rừng. Đau đớn và uất hận biết bao giờ nguôi? Như một tiếng thở dài ngao ngán:
Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu.

Vị chúa sơn lâm, nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già rồi uất hận căm ghét những cảnh không đời nào thay đổi tẻ nhạt, vô vị, vô nghĩa tầm thường giả dối nhỏ bé:

Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng;
Dải nước đen giả suối, chẳng thông dòng
Len dưới nách những mô gò thấp kém.

Uất hận cảnh tù hãm, chán ghét những cảnh vật tầm thường nhỏ bé do lũ người kia ngạo mạn bày ra, hổ lại nhớ day dứt, nhớ khôn nguôi cảnh nước non hùng vĩ. Nhớ rừng là nhớ vương quốc tự do ngày nào:

Là nơi giống hầm thiêng ta ngự trị
Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa.

Trước thực tại đau đớn, hổ chỉ còn biết thả hồn mình theo giấc mộng ngàn. Chúa sơn lâm cất tiếng gọi rừng thiêng với bao nhớ thương bồi hồi, da diết:

Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi !

Nhớ rừng là một trong mười bài thơ hay nhất của phong trào Thơ mới (1932 – 1941). Thể thơ tự do, lời thơ đẹp, hình tượng kỳ vĩ, tráng lệ. Nhạc điệu du dương, cảm xúc dào dạt. Hình tượng con hổ sa cơ, đau đớn uất hận, da diết nhớ rừng được khắc họa sâu sắc, đầy ám ảnh.

Trong hoàn cảnh bài thơ ra đời (1934), tâm trạng tủi nhục, đau đớn, uất hận… của con hể nhớ rừng đồng điệu với bi kịch của nhân dân ta đang rên xiết trong xích xiềng nô lệ. Nhớ rừng là khao khát sống, khao khát tự do. Bài thơ như một lời nhắn gửi kín đáo, thiết tha về tình yêu giang sơn đất nước. Tư tưởng lớn nhất của bài thơ là giá trị của tự do. Hình tượng con hổ nhớ rừng là sự thể hiện tuyệt vời tư tưởng vĩ đại ấy.

Bút pháp Lãng Mạng trong bài thơ Nhớ rừng​

 

Nhớ rừng là một trong những bài thơ hay nhất, tiêu biểu nhất của Thế Lữ và của phong trào Thơ mới (1932-1941). Bài thơ ra đời giữa lúc cuộc bút chiến giữa thơ mới và thơ cũ đang diễn ra hết sức gay gắt. Và sự xuất hiện của Nhớ rừng trên thi đàn đã làm cho cả hàng ngũ thơ xưa phải tan vỡ (Hoài Thanh).

Cái gì đã làm cho bài thơ Nhớ rừng có một uy lực và sức mạnh diệu kì đến như vậy? Phải chăng một phần là do sự độc đáo trong bút pháp nghệ thuật lãng mạn của thi nhân?

Trước hết, ta hãy cùng nhau đọc lại bài thơ, để cho ngôn ngữ, nhạc điệu của bài thơ vang lên bên tai ta, để cho cảm xúc thơ tràn ngập lòng ta, để cho hình ảnh thơ hiện diện trong tâm trí ta, để cho hồn thơ lắng lại trong ta:

Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt,
………………………………
Hỡi cảnh rừng ghè gớm của ta ơi!

Bài thơ được khơi nguồn từ một cảm hứng: cảm hứng lãng mạn. Cảm hứng lãng mạn trong Nhớ rừng thật mãnh Hệt và trở thành nguồn cảm hứng chủ đạo của cả bài thơ. Với cảm hứng lãng mạn, Thế Lữ đã khắc họa một hình tượng mang ý nghĩa biểu tượng: hình tượng con hổ. Nó có một vẻ đẹp tâm hồn lãng mạn: Tuy thân tù hãm nhưng hồn vẫn sục sôi khát vọng tự do; bất hòa sâu sắc với thực tại tầm thường tù túng, nhân vật trữ tình tìm cách thoát li vào mộng tưởng, tìm đến với cái thế giới rộng lớn, cao cả, phi thường.

Mạch cảm xúc thơ cuồn cuộn tuôn trào. Từ cảm xúc uất hận, chán ngán:

Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt,
Ta nằm dài trông ngày tháng dần qua

Chuyển thành nỗi nhớ tiếc khôn nguôi thời oanh liệt oai hùng đã qua:

Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ
Thuở tung hoành hống hách những ngày xưa.
Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già
Nỗi nhớ tiếc càng ngày càng trở nên đau đớn xót xa:
Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới?
Đâu những bình minh cây xanh nắng gội,
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng,
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật
Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?

Bốn câu hỏi tu từ vang lên liên tiếp khiến cho cảm xúc thơ càng thêm phần mãnh liệt, tác động mạnh mẽ tới cảm xúc của người đọc.
Từ cảm xúc nhớ tiếc da diết đến đau đớn, con hổ quay trở lại với tâm trạng chán ngán, u uất đến cao độ:

Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu

Càng uất hận, con hổ càng khát khao trở lại rừng thiêng:

Ta đương theo giấc mộng ngàn to lớn
Để hồn ta phảng phất được gần ngươi,
Hỡi cảnh rừng ghế gớm của ta ơi!

Bài thơ đã khép lại mà mạch cảm xúc vẫn cuồn cuộn tuôn trào, chảy mãi trong lòng người đọc. Có thể nói, nguồn cảm xúc lãng mạn dồi dào, đã tạo nên sức hấp dẫn đầu tiên cho bài thơ.

Trong dòng cảm xúc lãng mạn của thi nhân, xuất hiện một hệ thống hình ảnh thơ mang một vẻ đẹp độc đáo, đầy ấn tượng. Đây là hình ảnh của cảnh sơn lâm hùng vĩ từ bóng cả cây giày đến tiếng gió gào ngàn, giọng nguồn hét núi…, cái gì cũng lớn lao, cũng phi thường. Giữa nền thiên nhiên hùng vĩ ấy, hình ảnh chúa sơn lâm hiện ra mang một vẻ đẹp kì vĩ, lẫm liệt:

Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng,
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng,
Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc,
Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc,
Là khiến cho mọi vật đều im hơi.

Đặc biệt đoạn ba của bài thơ với những hình ảnh thể hiện sự sáng tạo nghệ thuật độc đáo, bất ngờ:

Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối,
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn,
Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới?
Đâu những bình minh cây xanh nắng gội,,
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng,
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt?

Đoạn thơ là một bộ tứ bình lộng lẫy. Đầu tiên là cảnh đêm trăng vàng bên bờ suối, con hổ say mồi đứng uống ánh trăng tan. Chao ôi, cảnh tượng thật lãng mạn và thơ mộng biết bao!

Nhân vật trữ tình đang thả hồn vào chốn thần tiên, say mê tận hưởng cái đẹp thanh cao của thiên nhiên. Trong tâm hồn nó, mọi nỗi ưu phiền dường như được rũ sạch. Bức tranh cuối cùng của bộ tứ bình vẫn lộng lẫy, nhưng không còn êm đềm thơ mộng nữa, mà trở nên dữ dội, bí hiểm với những mảng màu sắc rực rỡ, tạo ra những ấn tượng mạnh.

Hình ảnh thơ vừa tráng lệ, vừa giàu chất tạo hình, tạo nên nét đặc sắc trong bút pháp lãng mạn Thế Lữ . 

Để diễn tả cảm xúc, tâm trạng của nhân vật trữ tình và khắc họa hình ảnh thơ, Thế Lữ rất chú ý tới chọn lựa ngôn ngữ. Những động từ gậm, gào, thét, quắc, ôm,… vừa giàu nhạc tính, vừa phù hợp với hình ảnh thơ, những tính từ: dõng dạc, đường hoàng, âm thầm, lênh láng,…vừa giàu chất tạo hình, vừa gợi cảm. Những điệp từ, điệp ngữ: Nào đâu, đâu, kết hợp với việc sử dụng liên tiếp các câu hỏi tu từ càng làm tăng thêm nỗi nhớ tiếc da diết khôn nguôi, nỗi đau xót đến tận cùng trong tâm trạng nhân vật trữ tình… Có thể nói, ngôn ngữ trong Nhớ rừng khá dồi dào và phong phú, thể hiện rất đát ý tưởng và cảm xúc thơ.

Bên cạnh việc lựa chọn ngôn ngữ, Thế Lữ cũng rất chú ý đến tiết tấu và nhịp điệu thơ. Tiết tấu và nhịp điệu thơ được sử dụng khá linh hoạt. Để diễn tả tâm trạng căm uất dằn vặt khi mới bị nhốt trong cũi sắt, tác giả sử dụng một câu thơ nhiều vần trắc: Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt, câu thứ hai chuyển sang nhiều thanh bằng, giọng trầm xuống, diễn tả nỗi buồn bã, chán ngán. Hoặc những câu thơ miêu tả hình ảnh con hổ đang tung hoành giữa thiên nhiên hùng vĩ, có những thanh bằng trắc xen kẽ nhau nhịp nhàng đã góp phần làm nổi bật lên hình tượng con hổ vừa uy nghi, dũng mãnh, vừa mềm mại, uyển chuyển. Những nhịp thơ dài, ngắn khác nhau rất phù hợp với sự thay đổi cảm xúc của con hổ. Tiết tấu và nhịp điệu ấy đã tạo nên những câu thơ rất giàu nhạc điệu.

Kết hợp với hình ảnh, ngôn ngữ , tiết tấu, nhạc điệu là giọng điệu của bài thơ. Giọng điệu thơ cũng khá phong phú, khi thì bực bội, dằn vặt, khi thì say sưa sảng khoái rất phù hợp với mạch cảm xúc trữ tình của bài thơ.

Tìm hiểu những nét đặc sắc nghệ thuật của bài thơ, ta thêm hiểu vì sao ngay sau khi Nhớ rừng vừa được đăng báo, nó đã được công chúng đón chào nồng nhiệt và được truyền bá rộng rãi.

Phân tích tâm trạng con hổ trong bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ.

Nhớ rừng là một bài thơ nổi tiếng của phong trào Thơ mới. Nó cũng là một bài in được dấu ấn đậm và bền trong nhiều thế hệ bạn đọc. Tác giả của nó – thi sĩ Thế Lữ, là một nhà thơ tài năng, người có công đầu trong phong trào Thơ mới. Có thể nói ông đã nhập thân hoàn toàn vào hình tượng con hổ trong bài, mượn con hổ để bộc lộ tâm sự của một thanh niên trí thức trước cuộc đời tù túng, nô lệ.

Một khía cạnh rõ nét của tâm sự ấy, là nỗi “tủi nhục” vì hiện trạng của thân phận:

Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm,

Để làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi,

Chịu chung bầy cùng bọn gấu dở hơi,

Với cặp báo chuồng bên vô tư lự.

Nỗi tủi nhục đến cao độ, chuyển thành phẫn uất, căm hờn. Bị mất tự do trong “cũi sắt”, đành bất lực “nằm dài trông ngày tháng dần qua”, lại còn bị “lũ người kia”, tác giả muốn ám chỉ ai đây? Phải chăng bọn thực dân người nước ngoài xa lạ nhào cợt, khinh thường:

Giương mắt bé giễu oai linh rừng thẳm

Xưa kia ta từng là “chúa tể của muôn loài”, “oai linh” ta ngự trị cả núi cao rừng sâu. Nay bị nhốt cũi, cùng thân phận “làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi” bị coi cá mè một lứa với bầy gấu dở hơi, cặp báo nông nổi! Nhục nhã, uất hận biết bao.

Cùng với “niềm uất hận ngàn thâu” ấy, là thái độ khinh ghét. Và khinh cũng đến cao độ như căm hờn, con hổ này không có gì lưng chừng, nửa vời cả. Nó ghét tất cả những cảnh tượng môi trường xung quanh, từ:

Những cảnh sửa sang, tầm thường, giả dối.

Cho đến:

Dải nước đen giả suối, chẳng thông dòng

Len dưới nách những mô gò thấp kém.

Nó khinh ghét tất cả cái môi trường áp đặt giả tạo mà “lũ người kia” đã thiết kế bày đặt ra. Nó nhận ra tất cả chỉ là trò nhái lại, là lối “học đòi” cái môi trường sống đích thực của nó xưa kia, cái “cảnh sơn lâm bóng cả, cây già – với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi” mà nó không thể nào quên được, mà nó mãi mãi nhớ thương. Phải chăng tâm sự của con hổ ở đây, một lần nữa lại phản chiếu tâm sự của chàng thanh niên Nguyễn Thế Lữ – người từng có thời hoạt động trong một “hội kín” yêu nước? Cái tâm sự bất bình, phủ định thứ văn minh “Tây Tàu nhố nhăng” đang thay thế cho những “vẻ hoang vu” của “bóng cả cây già” “những đêm vàng bên bờ suối”, “những bình minh cây xanh nắng gội”… một cách hình dung, gợi nhớ đến những giá trị văn hoá cổ truyền của Tổ quốc?

Nhưng có lẽ luồng tâm sự xuyên suốt, điều canh cánh thường xuyên hơn cả trong lòng con hổ là nỗi nhớ – một nỗi nhớ vừa da diết xót xa, vừa mênh mang hoành tráng. Đó là nỗi “nhớ rừng” cao cả, thiêng liêng, đúng như đầu đề bài thơ xác định. Ta dễ dàng nhận thấy hai đoạn thơ tả nỗi nhớ này tập trung, đậm đặc nhất – đoạn thứ hai và thứ ba trong bài – là hai đoạn có nhiều cảnh sắc huy hoàng hấp dẫn nhất, có nhạc điệu lôi cuốn say mê nhất. Nhớ làm sao bóng dáng xưa kia của ta “bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng, lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng” giữa “sơn lâm bóng cả, cây già – với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi”, đẹp đẽ, uy nghi, hùng tráng biết bao! Nhớ làm sao.

… những đêm vùng bên bờ suối

Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?

… những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn

Ta lặng ngắm cảnh giang sơn ta đổi mới?

… những bình minh cây xanh nắng gội,

Tiếng chim ca, giấc ngủ ta tưng bừng?

Những kỉ niệm mới lộng lẫy, hùng vĩ, nên thơ nên nhạc biết bao!

Có thể nói  qua bài thơ ” Nhớ Rừng “Thế Lữ đã chứa chất vào lời con hổ trong vườn này tâm sự của các thế hệ cùng lứa với nhà thơ. Và cũng không riêng gì một thế hệ. Ai là người Việt Nam còn chút lòng yêu nước, còn biết nghĩ, mà chẳng cảm nhận xót xa nỗi hờn mất nước? Ai đã từng đọc qua lịch sử dân tộc, có ít nhiều ý thức về nền “văn hiến” đã lâu “của đất nước, mà chẳng ngán ngẩm với thứ văn minh hào nhoáng pha tạp thời thực dân? Người Việt Nam chưa mất gốc nào mà chẳng ủ ấp hi vọng được “thênh thang (…) vùng vẫy”, được “ngự trị” trên “nước non hùng vĩ” của mình, tương tự chú hổ ở vườn thú kia vẫn không nguôi “giấc mộng vàng to lớn” của nó.

văn học trẻ sưu tầm tổng hợp

Tags
Show More

Related Articles

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Close