Bài văn hay THPTNghị luận văn họcNGỮ VĂN 11

Làm thơ thì không thể không có cái tôi

Ý thức về cái "tôi" đã đem đến một sự đa dạng phong phú trong cách biểu hiện. Cái Tôi với tư cách là một bản thể, một đối tượng nhận thức và phản ánh của thơ ca đã xuất hiện như một tất yếu văn học. Đó là con người cá tính, con người bản năng chứ không phải con người ý thức nghĩa vụ, giờ đây nó đàng hoàng bước ra “trình làng” (chữ dùng của Phan Khôi)

Trong tác phẩm “Tuỳ viên thi thoại” nhà phê bình Viên Mai (Trung Quốc) viết: “Là người thì không nên có cái tôiNhưng làm thơ không thể không có cái tôi”. Anh (chị) hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy bình luận và làm sáng tỏ cái tôi của một số nhà thơ trong phong trào thơ mới lãng mạn Việt Nam (1932 – 1945).

Bài viết tham khảo số 1

Ai đã từng một lần đọc kiệt tác “Truyện Kiều” của đại thi hào Nguyễn Du, hẳn vẫn còn nhớ mãi bước chân “xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” của Thuý Kiều tìm đến với Kim Trọng – bước chân mà nói như Xuân Diệu, sẽ còn làm biết bao thiếu nữ hôm nay và mai sau phải ngỡ ngàng, ngạc nhiên.
Trong xã hội phong kiến “phi ngã”, “vô ngã” những “bước chân Thuý Kiều” như thế thật hiếm hoi biết bao. Trong cuộc đời đã vậy, chẳng lẽ điều đó cũng hi hữu trong thơ ca, trong văn chương nghệ thuật? ý kiến sau đây của nhà phê bình nổi tiếng Trung Quốc Viên Mai, là lời giải đáp cho câu hỏi đó: “Làm người thì không nên có cái tôi… nhưng làm thơ thì không thể không có cái tôi”.
Xuất phát từ sự trải nghiệm sâu sắc với cuộc đời, từ thực tế phê bình thơ ca cổ điển Trung Quốc, Viên Mai đã đề xuất một quan niệm khá mới mẻ về “làm người” và “làm thơ”. Sống trong xã hội phong kiến, thời đại mà tư tưởng “vô ngã”, “phi ngã” như một thế lực vô hình chi phối mọi hành động của con người, Viên Mai cũng quan niệm: “làm người không nên có cái tôi”. “Cái tôi” ở đây có thể hiểu là tiếng nói là ý thức cá nhân cũng như cá tính riêng của mỗi người. “Cái tôi” trong cách nghĩa xưa như là hiện thân của một tư tưởng cá nhân ích kỉ, hẹp hòi, nhỏ bé, tầm thường. Cho nên “làm người không nên có cái tôi” là vì vậy. Nhưng câu nói của Viên Mai không nhấn mạnh tới vấn đề này. Điều ông quan tâm là việc “làm thơ” nghĩa là sáng tác văn chương nghệ thuật. Nhà phê bình đã đối lập “làm người” và “làm thơ” khi đặt ra yêu cầu bức thiết, sinh tử đối với thơ ca “không thể không có cái tôi”. “Cái tôi” trong thơ ca được hiểu như là cái tôi xúc cảm, là cá tính sáng tạo của nhà thơ. Như thế Viên Mai đã đặt ra yêu cầu quan trọng đối với nhà thơ đó là phải in dấu “cái tôi” – xúc cảm, cá tính sáng tạo của mình vào trang thơ. Thơ ca, với ông, là sự thể hiện “cái tôi” của nhà thơ sâu sắc nhất. Vậy thì tại sao “làm thơ không thể không có cái tôi”? Theo tôi, điều đó bắt nguồn từ chính đặc trưng của thơ ca. Thơ ca là hoạt động sáng tạo tinh thần của con người. Thơ là sự tự thể hiện mình một cách trực tiếp và chân thực nhất. Nói như Diệp Tiếp, thơ “là tiếng lòng” của nhà thơ vậy. Khi có những xúc cảm trào dâng mãnh liệt “không nói ra không được”, thậm chí có “thể chết” như cách nói của Rinkle, nhà thơ lại tìm đến thơ để giãi bày, sẻ chia. Bởi lẽ có những điều “chỉ có thể nói được bằng thơ”. Chính vì thơ là sự thể hiện nên thơ in đậm dấu ấn cái tôi cá nhân của nhà thơ. Xúc cảm trong thơ không phải của ai khác mà chính là những băn khoăn, trăn trở, những tình cảm, suy nghĩ của chính nhà thơ. Cho nên làm thơ phải có “cái tôi” là vì vậy.
Thế nhưng quy luật, bản chất của lao động nghệ thuật lại là sáng tạo. Làm thơ không phải là một thứ sản xuất hàng loạt, làm theo “một vài kiểu mẫu” đưa cho. Sáng tác thơ, nói như Xuân Diệu, “là một thứ sản xuất đặc biệt và cá thể, do cá nhân thi sĩ làm”. Nghệ thuật muôn đời vẫn là “lĩnh vực độc đáo”. Vì vậy nó đòi hỏi nhà thơ phải có phong cách nổi bật tức là có cái gì đó rất riêng, rất độc đáo thể hiện trong tác phẩm của mình. Sáng tạo là yêu cầu sinh tử của nhà văn, đồng thời cũng làm nên tư cách của nhà văn chân chính. Khi mà anh không sáng tạo nghĩa là anh đang chết, nghĩa là anh phủ nhận tư cách nghệ sĩ của mình. Phải chăng vì vậy trong bức thư gửi một nhà văn trẻ, M.Gorki đã khuyên nhủ, nhắn gửi chân thành thấm thía rằng: “Các bạn hãy học viết ở tất cả các nhà văn có phong cách điêu luyện nhưng các bạn hãy tìm lấy nốt nhạc và lời ca của chính mình”. Khi một người không có cái gì riêng của mình, tác phẩm của anh ta không thể có một giá trị gì. Chính bởi bản chất của thơ ca là sáng tạo nên nhà thơ phải có “cái tôi” cá thể của mình, tức là phải có cá tính riêng độc đáo thể hiện trong tác phẩm của mình. Thơ ca chỉ thực sự có giá trị, có sức sống khi nó in đậm một cá tính riêng của nhà thơ.
Yêu cầu về “làm thơ” của Viên Mai đã vượt qua sự trói buộc ràng buộc nghiệt ngã của hệ tư tưởng phong kiến, trở thành một quan điểm ý nghĩa, xác đáng đối với thơ ca, nói rộng ra là văn chương nghệ thuật. Ý kiến ấy đã được thể hiện sâu sắc trong thực tế sáng tác thơ ca của các nhà thơ Trung Quốc cũng như đối với thơ ca Việt Nam, đặc biệt là với phong trào thơ mới lãng mạn Việt Nam thời kì 1932 – 1945. Đây được coi là thời đại của cái tôi – một thời đại chưa từng có trong lịch sử thơ Việt Nam. Thơ mới lãng mạn được coi là một dàn hợp xướng của “cái tôi”. Mãi mãi hôm nay và mai sau, người yêu thơ sẽ còn nhớ đến một Xuân Diệu “thiết tha, rạo rực”, một Huy Cận “ảo não”, một Nguyễn Bính “quê mùa”, một Hàn Mặc Tử “kì dị”, một Lưu Trọng Lư “mơ màng”, một Huy Thông “hùng tráng” và một Nguyễn Nhược Pháp “trong sáng” … Bởi các nhà thơ ấy đã nói lên tiếng nói của cái tôi cá nhân, đã nhìn cuộc đời và con người bằng con mắt của bản thân và diễn đạt cách cảm nhận riêng ấy bằng chính những ngôn ngữ, hình ảnh … in đậm dấu ấn cá nhân nên tiếng thơ của họ còn mãi với cuộc đời, sống mãi trong lòng người.
Trong dàn hợp xướng của phong trào thơ mới lãng mạn Việt Nam, Xuân Diệu nổi bật lên như một ngôi sao rực rỡ, chói loà, với những vần thơ nồng nàn, say đắm, mãnh liệt. Thơ Xuân Diệu là bầu xuân. “Thơ ông là bình chứa muôn hương của tuổi trẻ” (Vũ Ngọc Phan). Trong thơ ông người đọc bắt gặp dòng cảm xúc sôi nổi mãnh liệt, cái mà Nguyễn Đăng Mạnh gọi là “niềm khát khao giao cảm với đời” riêng có ở Xuân Diệu. Cái tôi nội cảm của nhà thơ, xét đến cùng chính là lòng yêu đời, ham sống mãnh liệt đó. Có lẽ chỉ riêng Xuân Diệu mới có ham muốn phi thường, kì vĩ:
“Tôi muôn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muôn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”.
Hiện diện giữa các dòng thơ là “cái tôi” của Xuân Diệu, không hề che giấu mà dõng dạc vang lên như thách thức, như tuyên bố với cuộc đời. Nhà thơ có ham muốn “tắt nắng”, “buộc gió” để giữ lại màu sắc, hương thơm của thiên nhiên, của tạo vật. Một khát vọng, ước muốn kỳ vĩ, độc đáo có lẽ chỉ thấy ở nhà thi sĩ họ Ngô này. Khát vọng ấy xuất phát từ tình yêu mãnh liệt với cuộc đời, ước muốn được làm chủ, được chế ngự thiên nhiên, được sống tận độ trong sắc màu và hương thơm của cuộc sống, của tuổi trẻ. Chính ham muốn ngông cuồng ấy đã làm nên sắc điệu riêng cho tiếng nói của cái tôi cá nhân của Xuân Diệu.
Có ai đó đã phong Xuân Diệu là “hoàng tử của thơ tình Việt Nam hiện đại”, là “người ca sĩ hát rong về tình yêu của nhân dân trong thời hiện đại”. Lòng ham sống, yêu cuộc sống mãnh liệt đã chắp cánh cho hồn thơ Xuân Diệu đến với tình yêu như một sự vượt thoát khỏi khuôn khổ chật hẹp của lễ giáo phong kiến. Xuân Diệu đã thể hiện một thứ tình yêu mạnh bạo mới mẻ của cuộc đời thực chứ không phải thứ tình yêu đạo đức trong sách vở hay thứ tình yêu ảo mộng của Tản Đà, Thế Lữ. Trước và sau Xuân Diệu không ai có được những vần thơ tình yêu sôi nổi, mãnh liệt như thế này:
Anh nhớ tiếng. Anh nhớ hình. Anh nhớ ảnh
Anh nhớ em. Anh nhớ lắm. Em ơi !
Vẻ đẹp tình yêu trong thơ tình Xuân Diệu thể hiện niềm khát khao giao cảm mãnh liệt từ thể xác tới tâm hồn con người. Cái mà Xuân Diệu sợ nhất trong tình yêu không phải là sự xa cách không gian – thời gian mà là sự xa cách của tấc lòng, là tình cảm mỗi người, là một vũ trụ riêng chứa đầy bí mật không hài hoà, trộn lẫn làm một. Quan niệm tình yêu độc đáo riêng có ấy đã làm nên những vần thơ tình đẹp nhất, mãnh liệt nhất trong thơ ca Việt Nam hiện đại.
Xuân Diệu hiện diện trong thơ không chỉ với cái tôi xúc cảm dào dạt đắm say mà còn với một cá tính sáng tạo độc đáo. Cá tính ấy thể hiện trong cái nhìn tươi mới trong trẻo, độc đáo về thế giới về con người được gửi gắm trong những vần thơ hiện đại, tinh vi, tài hoa. Thoát ra khỏi cái nhìn ước lệ chung chung chật hẹp của quan niệm phong kiến, Xuân Diệu đã say sưa, choáng váng trước vẻ đẹp đích thực của cuộc đời:
Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi sáng sớm thần vui hằng gõ cửa
Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần
Thế giới được cảm nhận qua đôi mắt “non xanh biếc rờn” của Xuân Diệu thật đẹp, thật sống động, tràn đầy màu sắc, âm thanh, ánh sáng, hương vị, tràn trề nhựa sông, đầy ắp sự sống. Mỗi chữ “này đây” vang lên như một đợt sóng cảm xúc dâng trào. Được trả cho mình đôi mắt nhìn đời của chính mình, Xuân Diệu đã say sưa ca lên khúc nhạc vui về cuộc sống về thiên nhiên về con người. Chính bởi cặp mắt ấy, Xuân Diệu đã phát hiện ra vẻ đẹp đích thực của thế giới, giúp người đọc thấm thía rằng: Thiên đường không phải ở đâu xa không phải ở một cõi mộng xa khuất nào mà ở ngay xung quanh chúng ta, ở ngay trong cuộc đời thực. Thiên đường ở chính mảnh đất của sự sống, của hương hoa này. Phải có con mắt “xanh non biếc rờn” của tuổi trẻ, của sức trẻ mới có thể nhận ra được. Sự phát hiện độc đáo ấy còn gắn với một quan niệm thẩm mỹ rất riêng, rất Xuân Diệu:
Tháng Giêng ngon như cặp môi gần
Thơ xưa thường lấy thiên nhiên làm chuẩn mực cho vẻ đẹp của con người. Người phụ nữ đẹp trong quan niệm xưa phải có khuôn mặt đẹp như hoa, như trăng rằm, có tiếng nói trong như tiếng oanh vàng, có lông mày đẹp như lá liễu. Còn với Xuân Diệu, chính con người mới là tạo vật toàn mĩ nhất, vẻ đẹp con người mới là chuẩn mực của thiên nhiên: “Lá liễu dài như một nét mi”.
Chính cách nhìn ấy đã khiến cho sự vật hiện lên trong thơ Xuân Diệu, dẫu chỉ là những hoa lá, cỏ cây … bình dị của cuộc sông thường ngày ánh lên vẻ đẹp thẩm mỹ đích thực của nó. Thơ Xuân Diệu không mới ở đề tài nhưng vẫn có sức hấp dẫn người đọc là vì vậy. Không những thế ông còn là nhà phù thuỷ tài ba hoá phép cho sự cảm nhận ấy biến ảo lung linh dưới ngôn ngữ, dưới hình thức nghệ thuật tài hoa, giàu giá trị thẩm mỹ. Người ta nói đến Xuân Diệu như người làm chủ xứng đáng của bút pháp tượng trưng tinh tế. Thi sĩ đã nắm bắt được cái xôn xao mơ hồ trong lòng tạo vật qua hình ảnh “Con cò trên ruộng cánh phân vân”. Thi sĩ cũng thấy được quá trình chuyển mùa tinh tế của đất trời ở phạm vi nhỏ bé nhất, tế vi nhất bằng từ “rũa” trong câu thơ độc đáo:
“Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh”
Nó khác hẳn với quá trình biến đổi của sắc lá trong thơ Nguyễn Du: “Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san” hay trong thơ Nguyễn Bính: “Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng”. Từ “rũa” miêu tả một sự biến đổi ở cấp độ vi mô hơn từ “nhuốm” hay “nhuộm”, hơn thế đó là quá trình hãy còn đang diễn ra chứ chưa phải đã hoàn tất. Xuân Diệu như nhìn thấy trên từng tế bào diệp lục của lá một sự giao tranh âm thầm mà quyết liệt: màu đỏ cứ lấn dần màu xanh từng tí một để rồi đến một lúc nào đó ta ngỡ ngàng nhận ra, cả trời thu đã nhuộm đỏ sắc lá. Theo sau đó là sự lùi dần của mùa hạ, thay thế chiếm ngự không gian là mùa thu. Với bút pháp tương giao tinh tế, với ngôn ngữ thơ độc đáo in đậm dấu ấn cá tính sáng tạo riêng của Xuân Diệu, câu thơ đã trở thành một trong những sáng tạo nghệ thuật độc đáo về mùa thu của nhà thơ.
Như thế thơ Xuân Diệu đã in đậm dấu ấn tâm hồn, tài năng, phong cách nghệ thuật độc đáo của riêng Xuân Diệu. Nó không hề lẫn với bất kì một tiếng thơ nào khác chính bởi sắc thái riêng của cái tôi độc đáo của Xuân Diệu.
Nếu như thơ Xuân Diệu khoác bộ y phục tối tân lộng lẫy thì thơ của Nguyễn Bính mang trên mình những “áo tứ thân”, “quần nái đen”, “khăn mỏ quạ” rất riêng của con người Việt Nam, của đồng đất thảo mộc nông thôn đất Việt. Nguyễn Bính là nhà thơ “Chân quê”, là hồn thơ “quê mùa” là vậy. Trong thơ ông ta thấy hiện lên khung cảnh làng quê rất riêng, rất Việt Nam với những giếng nước, mái đình, gốc đa, dậu mồng tơi … cảnh sắc làng quê Việt Nam đã mượn tiếng thơ Nguyễn Bính để lên tiếng.
“Giếng thơi mưa ngập nước tràn
Ba gian đầy cả ba gian nắng chiều”
Nguyễn Bính yêu mến cảnh quê như chính người nông dân yêu mến xóm làng của mình vậy. Thế nhưng ngay cả trong những câu thơ tưởng như rất gần gũi với ca dao dân ca này, vẫn hiện lên cách nhìn, cách cảm của riêng Nguyễn Bính của một hồn thơ mới. Nguyễn Bính đã chất đầy “nắng chiều” một thứ vô hình, huyền ảo trong “ba gian” nhà – một thứ hữu hình, chân thực. Thơ Nguyễn Bính nói cái “không” mà lại tràn ngập cái có, một ngôi nhà vắng mà lại trở nên sống động, tràn ngập “nắng chiều”. Đó chính là cái nhìn mới mẻ độc đáo về cảnh sắc làng quê Việt Nam có lẽ chỉ có ở Nguyễn Bính mà thôi.
Cùng viết về làng quê Việt Nam, nhưng nếu Anh Thơ rất thành công trong việc khắc hoạ cảnh quê, Đoàn Văn Cừ tài năng trong việc khắc hoạ những phong tục làng quê thì Nguyễn Bính lại sở trường khắc hoạ những mối tình quê, thực chất đều là những mối tình âm thầm, lặng câm, dang dở, bẽ bàng. Tâm lý của cái tôi Nguyễn Bính trong tình yêu là tâm lý của một chàng trai “quê mùa”.
“Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người
Nắng mưa là bệnh của giời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.”
Cũng viết về tâm trạng “tương tư” của người đang yêu song vần thơ Nguyễn Bính khác hẳn với những vần thơ của Xuân Diệu trong “Tương tư chiều”. Một bên là thứ tình yêu mãnh liệt, một nỗi nhớ bật trào ra khỏi cái xác chữ để phập phồng trên trang giấy còn một bên lại là mối tình lặng, dẫu không kém phần da diết. “Cái tôi” của Nguyễn Bính phải mượn đến những “thôn Đoài”, “thôn Đông”, những “một người” và cả mưa nắng của trời đất thiên nhiên để thể hiện mình, để khắc hoạ nỗi nhớ da diết trong sâu thẳm tâm hồn mình. Ấy chính là cái chất tâm hồn riêng của Nguyễn Bính trong thơ.
Xuân Diệu đắm mình trong tình yêu. Nguyễn Bính để hồn mình nương náu bến nước, gốc đa, mái đình… còn Huy Cận thi sĩ tìm về với những điệu hồn cổ điển. Thơ Huy Cận là tiếng lòng ảo não của nhà thơ cùng đất nước mà nặng buồn sông núi. Trong thơ Huy Cận, có nỗi buồn “thiên cổ sầu” “sầu vũ trụ”, … nhưng bao trùm hơn cả vẫn là nỗi sầu nhân thế:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng”.
Hoài Thanh gọi Huy Cận là hồn thơ “ảo não” nhất trong các nhà thơ mới phải chăng bởi những vần thơ như vậy. Một nỗi buồn trùng điệp, miên man khắp thời gian, giăng mắc khắp không gian. Như trăm dòng suối đổ ra sông, hàng hàng lớp lớp nỗi buồn từ khắp mọi ngả cuộc đời hợp về thành nỗi sầu lớn “sầu trăm ngả”. Đó là nỗi buồn của cá nhân khi đối diện vói không gian trời bể sông nước mênh mông, khi cảm nhận được kiếp người nhỏ bé trôi dạt như cành củi khô dập dềnh trên sóng nước. Người xưa dùng hình ảnh cánh bèo để nói lên thân phận chìm nổi của con người. Huy Cận lại dùng hình ảnh cành củi khô – một chất liệu vừa hiện thực, vừa hiện đại. Trong giây phút sầu tủi, ngậm ngùi về cuộc đời, về kiếp người, hồn thơ Huy Cận nương náu về một điểm tựa tinh thần, ấy là nỗi nhớ, tình yêu quê nhà:
“Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”
Huy Cận mang trong mình cảm hứng thơ đậm chất cổ điển chính bởi hình ảnh, ngôn ngữ thơ rất cổ điển, rất Đường thi. Song cái tôi của Huy Cận là cái tôi của một nhà thơ mới được giải phóng khỏi quy luật ước lệ chung chung trong thơ xưa. Người xưa thấy khói sóng trên sông mà động lòng nhớ quê, rộn lên tình cảm với quê nhà. Huy Cận không cần khói sóng gợi hứng bởi hồn thơ ông chất chứa tình cảm nhớ thương quê nhà tự rất lâu rồi. Thế là tâm cảnh chi phối ngoại cảnh. Thế là hồn thơ ảo não, da diết đã chi phối đến cách miêu tả, cảm nhận về thế giới rất riêng của Huy Cận. Chính nhờ cái tôi độc đáo ấy, Huy Cận đem đến cho thơ mới những vần thơ rất cổ điển những vẫn rất hiện đại.
Còn biết bao tiếng thơ độc đáo, đặc sắc khác hiện hữu trong phong trào thơ mới lãng mạn Việt Nam. Những hồn thơ ấy đã góp phần làm nên một thời đại rực rỡ chưa từng có trong thơ ca Việt Nam, in dấu những tên tuổi, những phong cách thơ độc đáo bậc nhất trên thi đàn văn học dân tộc.
Ý kiến của Viên Mai không phải không có chỗ cần bàn cãi tranh luận song theo tôi, đó là một nhận định, một quan điểm khá xác đáng, đáng trân trọng. Viên Mai vượt qua hạn chế của thời đại, dám lên tiếng đề cao cái tôi xúc cảm, cá tính sáng tạo nhất thiết cần có ở mỗi nhà thơ, ý kiến ấy đã mở ra một con đường sáng tác thơ ca chân chính ấy là hành trình tự thể hiện, là hành trình sáng tạo không ngừng để tạo nên những vần thơ độc đáo, in đậm dấu ân cái tôi cá nhân của mỗi nhà thơ. Đọc ý kiến, tôi chợt hiểu vì sao có những nhà thơ sẽ mãi mãi còn lại trong lòng người đọc, lại có những nhà thơ mà lịch sử, mà công chúng sẽ lãng quên. Khi một nhà thơ không có cái gì riêng trong tác phẩm của mình, sáng tác của anh sẽ không thể có giá trị và không thể tồn tại. ý kiến của Viên Mai được thể hiện trong những thời kì, giai đoạn văn học mà cái tôi cá nhân của người cầm bút bị xoá nhoà. Những thời đại ấy không thể có được giá trị vĩnh hằng với thời gian. Yêu cầu của Viên Mai sẽ còn mãi chân giá trị với thời gian.
(Thầy Thạch)
làm thơ không thể không có cái tôi Làm thơ thì không thể không có cái tôi
làm thơ không thể không có cái tôi

Bài tham khảo số 2

Đại thi hào Nga Lev Tosltoy đã cho rằng “Khi một nhà văn mới xuất hiện ta sẽ đặt câu hỏi rằng liệu anh ta có đem điều gì mới mẻ cho chúng ta”, quả thật, một nhà nghệ thuật chân chính không chỉ có “con mắt trông thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời”, mà còn phải biết đem đến “điều gì mới mẻ” cho nghệ thuật. Cũng đồng tình với ý kiến đó nhà lí luận đời nhà Thanh, Viên Mai đã nói:” Làm thơ thì không thể không có cái tôi”. Và đi đầu trong công cuộc mở đường cho cái tôi phát triển ta không thể không nhắc tới ông hoàng thơ tình Xuân Diệu. Ông đã không ngần ngại nói ra khát vọng tình yêu, khát vọng sống của mình, từ đó tạo ra những trang thơ vô cùng mới mẻ. Điều này được hể hiện tiêu biểu qua tác phẩm “Vội vàng”, bài thơ đã làm bật lên cái tôi mạnh mẽ, xúc cảm, cho ta một “bài học trông nhìn và thường thức”.

  Salty Schedrin khẳng định “Nghệ thuật nằm ngoài quy luật của sự băng hoại, chỉ mình nó không thừa nhận cái chết”, vậy điều gì làm cho nó bất tử? Phải chăng là ở tấm lòng và tài năng người cầm bút. Để một tác phẩm nghệ thuật sống mãi với nhân dân thì cái tôi sáng tạo và cái tôi xúc cảm phải luôn song hành cùng nhau. Như nhà phê bình văn học Viên Mai nhận định” Làm thơ không thể không có cái tôi”. Cái tôi ở đây chính là ý thức cá nhân, cá tính riêng của mỗi người. Còn thơ được hiểu là một hình thức sáng tác văn học phản ánh cuộc sống, thể hiện những tâm trạng, những cảm xúc mạnh mẽ qua ngôn ngữ hàm súc, giàu hình ảnh và đặc biệt là nhịp điệu. Xét dưới góc nhìn thi ca, khi thơ anh càng mang màu sắc cái tôi, ý thức cá nhân thì càng nổi bật, càng mới mẻ. Qua đây nhà thơ Viên Mai đã đặt ra yêu cầu bức thiết dành cho cá nhà thơ là phải luôn thể hiện tư tưởng, cá tính sáng tạo trong quá trình sáng tác. Những trang thơ phải là hiện thân của xúc cảm và phong cách riêng cả nhà thơ.

  Quả thật, nhà lí luận văn học Viên Mai đã đưa ra nhận định xác đáng, chí lí, chí tình. Khi anh làm thơ nhất định không thể xa rời cái tôi bởi trước nhất cái tôi là hiện thân của cảm xúc cá thể. Nhà văn Jose Martin khẳng định: “Thiếu tình cảm chỉ có thể làm người thợ là nhà lí luận văn học làm những câu thơ có vần, chứ không thể trở thành nhà thơ”, thơ chính là tiếng nói của cảm xúc. Nhưng thơ không bộc lộ những cảm xúc theo bản năng, trực tiếp mà đó là những cảm xúc được ý thức, được siêu thăng, lắng lọ qua cảm xúc thẩm mỹ, gắn liên với khoái cảm của sự tự ý thức. Và thơ bao giờ cũng là sự tự biểu hiện cái tôi tác giả của nó dù nhà thơ có nhận biết điều đó hay không. Bên cạnh đó, những người tìm đến thơ không chỉ để thưởng thức mà còn là để bày tỏ, gửi gắm tâm tư. “Thơ bắt đầu từ ngày con người tự biểu hiện lòng mình.” (nhà văn Hê – ghen), quá trình sáng tạo nghệ thuật là quá trình tự biểu hiện, sự hiện diện của nhà thơ giữa cuộc đời. Lẽ đó mà khi nhà thơ nguội lạnh, khép kín lòng mình thì tài năng nghệ thuật cũng chấm dứt. Qua đây ta càng thấy được tính đúng đắn của nhận định, làm thơ phải luôn có cái tôi – ở đây là dấu ấn tư tưởng tình cảm của người nghệ sĩ.

  Nếu các ngành khoa học loại bỏ cá tôi trong nghiên cứu thì ngành nghệ thuật, trong đó có thơ ca lại lấy cái tôi là điểm tựa của sự sáng tạo. Cái tôi chính là nhịp đập của bài thơ, thơ anh sẽ chết nếu mất đi sự mới mẻ, nét riêng của người nghệ sĩ. Thi ca đòi hỏi sự mới lạ độc đáo bởi đó là một hoạt động của quá trình sáng tạo, không lặp lại người khác cũng như không lặp lại chính mình. Cũng vì điều đó mà thơ ca chỉ “dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có” (nhà văn Nam Cao). Bên cạnh đó một nhà thơ chân chính đều muốn ghi lại dấu ấn của mình và tác phẩm nghệ thuật cũng muốn sống mãi trong lòng người đọc. Mà người đọc lại không bị tác động bởi những gì rập khuôn, đơn điệu và càng không chấp nhận những điều quen nhàm, không mới mẻ. Đó cũng là quy luật đào thải khắc nghiệt của văn chương. Nói cách khác nếu anh không phát huy cái tôi sáng tạo trong thơ ca thì đó là sự tự diệt. Từ đó ta càng nhận ra tính đúng đắn và tầm quan trọng ủa cái tôi trong thơ, “Làm thơ không thể không có cái tôi.”.

  Được biết những năm 1936-1939, thơ ca không còn dè dặt, không còn mộng sầu man mác như trước nữa mà công khai, mạnh dạn nói ra những ước muốn, khát vọng sống, khát vọng hưởng thụ và cả những khổ đau riêng tư. Và nhà thơ Xuân Diệu chính là người nhận lãnh lá cờ từ nhà thơ Thế Lữ trao sang, tiếp tục giương cao nó lên, từ đó cái tôi dần chiếm lĩnh thi đàn. Nhà thơ Xuân Diệu không chỉ sáng tạ về mặt hình thức mà cả những tư tưởng tình cảm của ông cũng được bộc lộ mạnh mẽ, điển hình là qua tác phẩm “Vội vàng”:

                           “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần:
                            Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa
                            Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.”

 Ở câu đầu ta thấy được phép so sánh táo bạo thiên về mặt cảm xúc. Tháng giêng là tượng trưng cho mùa xuân, mùa xuân của đất trời thanh tân tình tứ và mùa xuân ấy được miêu tả cụ thể qua từ “ngon”. Đến với “Vội vàng” của nhà thơ Xuân Diệu ta luôn bị thu hút ởi những hình ảnh táo bạo, độc đáo. Để làm được điều đó ông đã cảm nhận cuộc sống bằng tất cả các giác quan, từ vị giác đến những rung động của thị giác: “cặp môi gần”. Hình ảnh cặp môi gần như làm môi hồng tươi của cô thiếu nữ đang hé mở chờ đợi. Bằng những cảm nhận theo thuyết tương giao ta thấy được nhà thơ đã không ngần nagij bộc lộ khát vọng ôm trọn cuộc sống, ông đã cảm nhận bằng cả trái tim, từ đó làm thơ ông thêm màu sắc, táo bạo. Không những thế khi nhắc đến cái tôi trong thơ ca ngoài những cảm xúc cá thể còn là sự sáng tạo trong hình thức, tư tưởng. Ở nhà thơ Xuân Diệu, ta luôn biết đến nét nổi bật chính của ông là sự đan xen hai luồng cảm xúc trong một câu thơ. “Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa.” Dấu chấm giữa câu ủa là một sự sáng tạo trong thơ ca. Bên cạnh đó dấu chấm ấy như bước chân nhà thơ đang hăm hở bỗng khựng lại giữa vườn xuân khi nhận ra giới hạn cuộc đời. Đang ở đỉnh điểm hạnh phúc thì tâm hồn ông lại nhận ra “trong găp gỡ đã có mầm li biệt”, từ đó mà nhà thơ đã nói ra quan điểm sống của mình “Tôi không chờ năng hạ mới hoài xuân”. Qua những câu thơ ấy ta nhận ra thơ cơ phải gắn liền với cái tôi bởi chính cảm xúc cá thể ấy, khát vọng cuộc sống ấy và cả sự sáng tạo đã giúp bài thơ thêm phầm sâu sắc.

  “Thơ chính là rượu của thế gian” (nhà văn Huy Trực) nhưng nếu thiếu cái tôi thì thơ chỉ là ly rượu nhạt. Và một nhà thơ chân chính như nhà thơ Xuân Diệu sẽ không chấp nhận điều đó. Vì thế mà trong tác phẩm “Vội vàng” ông đã cho cảm xúc của mình được tự do trong từng câu thơ, và ông còn cho người đọc thấy sự mới mẻ về hình thức:

Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
– Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!

Điệp từ “cho” như đại diện cho những reo vui hớn hở, tác giả hoàn toàn đắm chìm trong hương thơm và ánh sáng. Tác giả để mình tận hưởng mùi vị mùa xuân một cách trọn vẹn nhất. Bên cạnh đó nhà thơ Xuân Diệu chưa bao giờ che lấp tình cảm của mình, ông không những mạnh dạn bộc lộ một cách rất Xuân Diệu:”-Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi!”. Nhà thơ đã vận dụng tinh tế từ phương diện ngôn ngữ lẫn phương diện cấu trúc, ông xóa bỏ những niêm luật gò bó để thốt lên những tâm tư trong tim mình. Chỉ qua những câu thơ ngắn ấy thôi đa khiến người đọc ấn tượng mạnh về phong cách của nhà thơ. Chính cái tôi mãnh liệt, nhạy cảm đã thổi hồn vào từng câu thơ khiến thi phẩm mang đậm hương sắc.

  Nhà văn Claude Bernard khẳng định:” Nghệ thuật là tôi, khoa học là của chúng ta”, sáng tạo nghệ thuật là một thứ sản xuất đặc biệt và cá thể. Thơ ca luôn đòi hỏi những cảm xúc cá thể lẫn sự sáng tạo ở người thi sĩ. Nhưng không vì thế mà thơ ca xa rời cuộc sống, mất đi tính tập thể bởi yếu tố tiên quyết của một bài thơ là tính chân thật, tính dân tộc hay nói cách khác từ câu chuyện của một người phát triển thành câu chuyện của muôn người. Và để trở thành nhà thơ chân chính anh phải không ngừng trau dồi tình cảm, tài năng, nhân cách. Bên cạnh đó anh phải có tư tưởng lập trường tiến bộ, dám vượt lên những thiên kiến hẹp hòi, lạc hậu để nói ra những “điều trông thấy”.

  Tóm lại, nhận định của nhà phê bình văn học Viên Mai là vô cùng xác đáng,Làm thơ không thể không có cái tôi. Thơ ca nâng niu những cảm xúc riêng tư và đề cao phông cách sáng tạo của mỗi nhà thơ. Chính những yêu cầu bức thiết ấy của nghệ thuật giúp thơ ca nói riêng, văn học nói chung ngày càng phát triển nhưng vẫn luôn gắn liền với chân – thiện – mỹ và vẫn luôn mang trong mình sứ mệnh là phản ánh cuộc sống, phục vụ con người.

Nguyễn Ngọc Minh Anh

Lớp 11 Chuyên Văn trường Trung học Thực hành Đại học Sư phạm Tp. HCM

Tags
Show More

Related Articles

1 thought on “Làm thơ thì không thể không có cái tôi”

  1. Có người bảo ” là người thì không nên có cái tôi” nhưng là một người yêu thơ tôi thấy rằng” làm thơ thì không thể không có cái tôi”. Cảm ơn tác giả đã cho tôi hiểu hơn về thơ và các nhà thơ.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Close