NGỮ VĂN 11
Vội vàng của Xuân Diệu: Khát vọng sống, cảm xúc mãnh liệt của hồn thơ
Khát vọng sống, cảm xúc mãnh liệt của Vội vàng và Xuân Diệu
“Vội vàng” của Xuân Diệu phát hiện thấy cách “chiến thắng” thời gian bằng cường độ sống, khát vọng sống, tận hiến và tận hưởng cuộc sống bằng tất cả các giác quan, sống mãnh liệt như ngọn lửa thổi bùng.Xuân Diệu từng ao ước có cặp hài vạn dặm để “đi mau trốn nét, trốn màu” nhưng đó chỉ là ước mơ cổ tích. Đoạn thơ cuối chính là lời giải đáp cho những băn khoăn, thắc mắc, trả lời cho câu hỏi: sống “Vội vàng” như thế nào?
Bài làm số 1:
Vội vàng của Xuân Diệu: Khát vọng sống, cảm xúc mãnh liệt của hồn thơ
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
– Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi !”
Cảm xúc mãnh liệt đã tạo nên những làn sóng ngôn từ cộng hưởng, đan xen theo chiều tăng tiến, mỗi lúc một say sưa, càng lúc càng dâng lên cao trào: Phần trước của đoạn thơ tác giả xưng “tôi” để bộc bạch, phơi trải, giãi tỏ với mọi người, với cuộc đời. Cái “tôi” ấy giờ đây xưng “ta” như muốn đối diện với toàn bộ sự sống trên trần gian, đối tượng cần tận hưởng. Mạch thơ đang từ băn khoăn, tiếc nuối, dỗi hờn bỗng bừng lên nhịp sống mới. Câu thơ đột ngột ngăn đến bất ngờ: “Ta muốn ôm”. Tất cả mạch ngôn từ phía sau bị chi phối ráo riết bởi nỗi lòng khao khát như tức khắc bật ra này. “Ta muốn ôm”, “Ta muốn riêt”, “Ta muốn say”, “Ta muốn thâu”, “Ta muốn cắn”, kết cấu ngữ pháp trùng điệp kết hợp với các động thái và cảm xúc tăng tiến làm hiện ra tính cao trào mãnh liệt của xúc cảm. Cùng với đó là trùng điệp các liên từ: “và non nước, và cây, và cỏ rạng”; các giới từ điệp nguyên vẹn gắn với những trạng thái càng lúc càng mãnh liệt: “cho chếnh choáng”, “cho đã đầy”, “cho no nê”. Những tính từ chỉ xuân sắc, các động từ chỉ trạng thái đắm say, những hình ảnh tình tứ quyến rũ: “bắt đầu mơn mởn”, “mây đưa gió lượn”, “cái hôn nhiều”, “cỏ rạng”, “mùi thơm”, “ánh sáng”, “thanh sắc”, “thời tươi”… Tất cả tận hưởng để thúc giục vội vàng:
Em, em ơi, tình non sắp già rồi”
Cái ly cuộc sống ngọt ngào mơn mởn ngát hương thơm, ngập tràn ánh sáng đang mời gọi, thúc giục thi sỹ của mùa xuân khao khát uống cạn. Vòng tay ôm ham hố, vồ vập. Sự sống đang ở thời tươi đẹp nhất, sung mãn nhất. Và người tình của sự sống ấy như con ong say mật lảo đảo giữa phấn hương. Quả thực, Xuân Diệu là một “nguồn sống dạt dào chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này” (Hoài Thanh).
“Vội vàng” là tiếng nói của một tâm hồn yêu sống, tham sống, khát sống, một quan niệm nhân sinh quan mới mẻ, một sợi dây vô hình có sức mạnh đưa con người xích lại cuộc sống.
Bài làm số 2: Khát vọng sống, cảm xúc mãnh liệt trong bài thơ ” Vội Vàng” của Xuân Diệu qua 13 câu thơ đầu
Thời đại thơ mới là một nhánh rẽ đầy ngoạn mục, táo bạo của thơ ca Việt Nam. Thời điểm thơ văn khoát lên cho mình một chiếc áo được cách tân mới mẻ, là mảnh đất màu mỡ vun trồng những hồn thơ tài ba như: Tản Đà, Thế Lữ, Xuân Diệu,… Theo như Hoài Thanh nhận định Tản Đà là người “đã dạo những bản đàn mở đầu cho một cuộc dạo chơi tân kì đương sắp sửa” thì có lẽ Xuân Diệu là người đã đưa những khúc nhạc ấy đến một vị trí xứng tầm trong lòng bạn đọc khi cho ra đời tập: Thơ thơ được xem là đỉnh cao trong phong trào thơ mới. Bài thơ Vội vàng được trích từ tập thơ ấy, tiêu biểu cho một phong cách thơ được cách tân rất mới mẻ về nội dung và hình thức của Xuân Diệu. “Một hồn thơ rạo rực băn khoăn trong những câu thơ lời ít ý nhiều như đọng lại bao tinh hoa”.
Ả
Giữa lúc ta lên tiên cùng Tản Đà, đắm chìm trong mộng tưởng cùng Hàn Mặc Tử,.. thì Xuân Diệu là người đã “đốt cảnh bồng lai và xua ai nấy về hạ giới”. Lòng yêu đời yêu cuộc sống tha thiết đã khiến tâm hồn của thi sĩ bám chặt lấy cuộc sống trần thế, không thoát ly hoàn toàn như các nhà thơ khác. Với đời, ông có một khát khao cháy bỏng:
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”
Nhà thơ sử dụng những câu thơ ngắn với âm điệu nhanh, ngôn ngữ thơ dứt khoát để thể hiện ứơc muốn mãnh liệt muốn níu giữ thời gian. Bởi lẽ thời gian là nỗi ám ảnh nhất trong cuộc đời:
“Ôi đau đớn! Ôi đau đớn! Thời gian ăn cuộc đời”
(Bauxtelaire)
Là một hồn thơ rạo rực, tha thiết với đời, ông muốn tận hưởng những khoảnh khắc tươi đẹp nhất của trần thế nhưng ngặt một nỗi:
“Thời gian thấm thoắt thoi đưa
Nó đi đi mãi có chờ đợi ai”
(Tục ngữ)
Vì thế thi nhân rất trân trọng những giây phút tươi đẹp của cuộc đời. Người dùng tất cả giác quan tạo hoá ban tặng để cảm nhận thời gian. Thời gian vốn vô hình, vô vị, vô tình đi vào “vội vàng” của Xuân Diệu bỗng rất hữu hình, nên thơ qua hình ảnh “nắng”, “gió”. Từ “tôi muốn” được điệp lại kết hợp với những động từ mạnh như “tắt” (nắng), “buộc” (gió) thể hiện một tư thế chủ động muốn đóng băng thời gian vì một lẽ đời tươi đẹp phía trước:
“Của ong bướm này đây tuần tháng mật…
Mỗi buổi sớm thần vui hằng gõ cửa”
Những câu thơ với âm điệu nhẹ nhàng, hình ảnh tươi sáng đã vẽ nên một khung cảnh thiên nhiên đậm sắc, hương, thanh. Vạn vật đang ở độ đương thì tươi ngon nhất, đẹp đẽ nhất. Chim chóc, hoa lá, ong bướm như vực dậy để tận hưởng cảnh xuân tươi tắn, mựơt mà. Cảnh vật không tĩnh lặng mà náo động linh hoạt với những hình ảnh liên tưởng độc đáo của thi sĩ. “Tuần tháng mật” của đôi vợ chồng đắm say trở thành mùa của ong bướm dập dìu rất lãng mạn. Tiếng hót của chim yến chim oanh trở thành “khúc tình si” hút hồn biết bao con người yêu cảnh thiên nhiên tươi đẹp. Và ánh nắng được nhân hoá như một nàng tiên e thẹn với những ánh mi dài cuốn hút vạn vật. Tất cả như chan hoà làm nên một mảnh vườn đẹp nên thơ mà rất trần đời.
Từ đó cái đẹp của mùa xuân thiên nhiên còn ẩn dụ như cái đẹp của con người ở độ sắc xuân, đương thì. Qua đó, ta thấy được thi sĩ có sự cảm nhận mùa xuân rất tinh tế và có tài khéo léo vẽ lại những hình ảnh ấy với một thứ sức sống căng tràn, nảy nở. Nói bóng bẩy như Vũ Bằng thì thứ thứ nhựa sống mỡ màng ấy như “máu căng lên trong lộc của loài nai, như những mầm non háo hức muốn bức ra từ những thân cây”. Thi sĩ chọn thời điểm rạo rực nhất “tháng giêng”, tươi mới nhất “mỗi buổi sớm”, để miêu tả khiến bức tranh thiên nhiên mùa xuân càng tinh khôi,xinh đẹp. Không chỉ vậy, nhà thơ còn tạo nên một thiên đường của xúc cảm. Nghệ thuật chuyển đổi cảm giác được dùng rất linh hoạt từ xúc giác “tuần tháng mật”, thính giác “khúc tình si”, thị giác “ánh sáng chớp hàng mi”.
Tâm hồn của thi nhân rạo rực, tha thiết, bâng khuâng trước cảnh trần thế xinh đẹp vô cùng đã khơi nguồn nên những hình ảnh sáng tạo độc đáo trong những vần thơ. Vào lúc ấy, hồn thơ, hồn người, hồn của thiên nhiên đất trời như giao hoà để Xuân Diệu viết nên một câu tuyệt bút:
“Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”
”Tháng giêng” vốn vô hình bỗng trở nên hũư hình căng đầy một tình yêu trần thế. Một thứ tình cảm rạo rực, cháy bỏng trong tâm hồn thi nhân đã được dồn nén kết tụ trong một từ “ngon” duy nhất rất tài hoa. Câu thơ với điểm nhấn là từ “ngon” được dùng rất đắt thể hiện một quan điểm mĩ học rất mới mẻ về sự cảm nhận thiên nhiên phản phất sắc thái của “nhục thể”. Tuy vậy, ý thơ không gây thô tục mà có phần mới lạ. Nhà thơ cảm nhận rất tinh tế ý vị của thời gian nên có sự chuyển đổi xúc giác sang vị giác. Quả thật, Xuân Diệu bên cạnh có đôi mắt nhìn đời rất tinh tế còn có một tâm hồn rất thiết tha, nhạy cảm với cuộc sống.
Những câu thơ: “Của ong bướm này đây tuần tháng mật”, “Của yến anh này đây khúc tình si” và “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần” mang một quan điểm mĩ học rất mới so với thơ ca truyền thống trước đó. Thơ trung đại con người được các nhà văn, nhà thơ tạo tác trên những chuẩn mực của thiên nhiên.
Thế mới thấy thơ Xuân Diệu đã hoàn toàn lột xác và hướng về một nguồn quan điểm mới rất gần với Shakespeare:
Con người là kiểu mẫu của muôn loài
Nhà thơ đã lấy con người làm khuôn mẫu để tạo ra những hình thái thiên nhiên mang một sức hấp dẫn kì lạ, một sự tươi mới chưa từng có. Người cảm nhận thiên nhiên bằng một lăng kính trái hình với thi ca thời xưa. Qua đó, ta thấy thêm tin yêu một hồn thơ mới đã đem đến cho ta một hình ảnh đầy thi vị, một ánh màu mới mẻ trong thơ ca.
“Thơ Xuân Diệu là một niềm khát khao giao cảm với đời”
(Nguyễn Đăng Mạnh)
Hình ảnh của cuộc sống đi vào vội vàng của Xuân Diệu như một thứ ánh sáng được khúc xạ qua lăng kính tình yêu rất tinh khôi và giàu sức sống. Càng yêu đời, nhà thơ càng luyến tiếc trước dòng chảy của thời gian. Thời điểm vạn vật đang căng tràn nhựa sống cũng chính là lúc đang đứng trên ranh giới của sự lụi tàn, héo úa. Vì thế từ những câu thơ gãy gọn ở khổ đầu, nhà thơ đi vào khổ hai với những câu thơ dài, âm điệu chậm như bước chân người thư thái dạo ngắm vườn xuân muốn tận hưởng giờ khắc huy hoàng ấy. Thi sĩ từ tốn chỉ cho người đọc những gì tinh hoa, tươi đẹp nhất của trần gian với một thái độ mến yêu, trân trọng “này đây”.
Đọc thơ Xuân Diệu, ta thấy từng dòng chữ rất mới, những tư tưởng tiến bộ thoát ly hoàn toàn những khuôn sáo cổ điển, tuy say mà tỉnh, mộng nhưng thực. Cảnh sắc xuân như xô đẩy câu thơ, khuôn khổ thơ bị xê dịch như “một đống hỗn độn đẹp xô bồ vừa say dậy” (Bích Khê). Đó là điều khiến thơ của thi sĩ từng bước chứng tỏ sức sống mãnh liệt qua thời gian mặc dù người khen rất nhiều người chê cũng không ít.
Đoạn thơ trong “vội vàng” của Xuân Diệu thể hiện một một khát vọng sống thiết tha mãnh liệt rất trần đời. Một hương vị lạ góp phần làm đa dạng sự mới mẻ trong phong trào thơ mới. Dù rằng thơ Xuân Diệu mang một phong cách rất Tây nhưng nhìn chung lầu thơ của ông được xây dựng trên mảnh đất thơ ca truyền thống. Sự tiếp thu những tư tưởng mới, biết hoà nhập nhưng không hoà tan là nét chung rất đáng ngợi ca khâm phục của Xuân Diệu nói riêng và các nhà thơ mới nói chung. Vì thế Xuân Diệu xứng đáng là “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”
Trích từ “Những bài văn hay”