Ngữ Văn 9

Cảm nghĩ về người lính trong “bài thơ về Tiểu đội xe không kính”

Qua hình ảnh độc đáo những chiếc xe không kính, Phạm Tiến Duật đã khắc tạc bức tượng đài người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn đầy khói lửa vẻ đẹp ngang tàng với ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam sắt đá, tinh thần lạc quan và tình đồng đội gắn kết.

Phạm Tiến Duật là gương mặt tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ thời kì chống Mĩ cứu nước. Thơ ông có giọng điệu sôi nổi, trẻ trung, hồn nhiên, tinh nghịch mà sâu sắc, tập trung thể hiện hình ảnh thế hệ trẻ Việt Nam trên tuyến đường Trường Sơn trong những năm chống Mĩ cứu nước. “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là tác phẩm tiêu biểu của ông. Bài thơ đã khắc họa thành công hình ảnh những người chiến sĩ Trường Sơn dũng cảm, hiên ngang, lạc quan, giàu ý chí chiến đấu.

“Bài thơ về tiểu đội xe không kính: được Phạm Tiến Duật viết năm 1969 khi cuộc kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra ác liệt. Bài thơ đã làm nổi bật vẻ đẹp người lính lái xe Trường Sơn dũng cảm, hiên, lạc quan, giàu ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Dù phải ngồi trên xe không kính vì “bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi” nhưng những người lính lái xe hiện lên với tư thế hiên ngang lạ thường:

“Ung dung buồng lái ta ngồi

Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”

Từ láy “ung dung” được đảo lên đầu câu thơ đã làm nổi bật tư thế hiên ngang của người lính lái xe. Điệp từ “nhìn” kết hợp với nhịp thơ 2/2/2 đã mở rộng không gian đất trời để nhấn mạnh cái nhìn trực diện không đổi, không hề run sợ trước khó khăn, gian khổ. Điều đó thể hiện một bản lĩnh vững vàng của người lính lái xe.

Cảm nghĩ về người lính trong “bài thơ về Tiểu đội xe không kính”

Trong tư thế ung dung ấy, người lính lái xe có những cảm nhận rất riêng khi tiếp xúc trực tiếp với không gian bên ngoài:

“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng

Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim

Thấy sao trời và đột ngột cánh chim

Như sa, như ùa vào buồng lái”

Xe không kính nên giữa người lính lái xe và không gian bên ngoài không hề có sự ngăn cách. Tác giả đã diễn tả một cách cụ thể ấn tượng những cảm giác sống động của người lính lái xe: có gió, có con đường, có sao trời, có cánh chim,… tất cả như giao hòa cùng con người. Xe băng băng tiến về phía trước, con đường giải phóng miền Nam như chạy thẳng vào tim. Những hình ảnh so sánh kết hợp cùng phép điệp ngữ “nhìn thấy, thấy”,”như sa, như ùa” không chỉ thể hiện những cảm giác thú vị mà còn gợi cả tốc độ phi thường của đoàn xe quân sự trên con đường huyền thoại.

Bài thơ về tiểu đội xe không kính: được Phạm Tiến Duật viết năm 1969 khi cuộc kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra ác liệt. Bài thơ đã làm nổi bật vẻ đẹp người lính lái xe Trường Sơn dũng cảm, hiên, lạc quan, giàu ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Dù phải ngồi trên xe không kính vì “bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi” nhưng những người lính lái xe hiện lên với tư thế hiên ngang lạ thường: Cảm nghĩ về người lính trong “bài thơ về Tiểu đội xe không kính”
Tác giả đã diễn tả một cách cụ thể ấn tượng những cảm giác sống động của người lính lái xe: có gió, có con đường, có sao trời, có cánh chim,… tất cả như giao hòa cùng con người.

Những người lính lái xe còn có có tinh thần lạc quan, bất chấp gian khổ, khó khăn:

“Không có kính ừ thì ướt áo

Bụi phun tóc trắng như người già”

Đường Trường Sơn đất lẫn sỏi đá, bom đạn giặc Mĩ cày xới, mùa mưa thì lầy lội, mùa khô thì bụi mịt mù. Động từ “phun” đã đặc tả mức độ bụi đường. Trước khó khăn, gian khổ, người lính đón nhận một cách thản nhiên: “không có kính ừ thì có bụi”, cũng “chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc”, “nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”. Sau nỗi khổ bụi đường là nổi khổ vì mưa rừng Trường Sơn:

“Không có kính ừ thì ướt áo

Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời”

Xe không kính nên trong buồng lái cũng như ngồi ngoài trời ướt áo. Nhưng người lính đón nhận khó khăn ấy một cách thản nhiên bởi “không có kính ừ thì ướt áo”, cũng “chưa cần thay lái trăm cây số nữa” để “mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi”.

Những người lính lái xe còn có tình đồng đội keo sơn, gắn bó. Trên con đường tiến về giải phóng miền Nam phía trước – con đường chính nghĩa, họ càng đi càng có thêm nhiều bạn bè: “Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới”. Tình đồng đội được thể hiện thật cảm động qua chi tiết độc đáo: “Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi”. Xe không kính nên người lính bắt tay nhau một cách tự nhiên, thoải mái mà không cần mở cửa. Họ bắt tay nhau để thể hiện sự an tâm về đồng đội, cái bắt tay ấy như truyền cho nhau sức mạnh, niềm tin để cùng nhau chắc tay lái tiến về giải phóng miền Nam phía trước. Những bữa cơm đạm bạc đã giúp họ thắp lửa thêm tình đồng đội yêu thương:

“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời

Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”

Bữa cơm đơn sơ nhưng đượm tình đồng chí giúp họ mạnh mẽ vượt lên khó khăn gian khổ, tiến về giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.

Không những thế, người lính lái xe còn có ý chí chiến đấu:

“Không có kính rồi xe không có đèn

Không có mui xe, thùng xe có xước

Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước

Chỉ cần trong xe có một trái tim.”

Điệp từ “không” kết hợp với phép liệt kê: kính, đèn, mui xe, thùng xe” đã tô đậm một cách chân thực tới mức trần trụi hình ảnh những chiếc xe bị bom Mĩ phá hủy đến toàn bộ. Nhưng mọi thứ của xe có thể không có, không còn nguyên vẹn, song chỉ cần vẹn nguyên “một trái tim” thì xe vẫn chạy băng băng về phía trước mà không bom đạn nào ngăn cản được. “Trái tim” là hình ảnh hoán dụ chỉ về hình ảnh người lính lái xe Trường Sơn dũng cảm, hiên ngang, giàu ý chí chiến đấu. Chính trái tim ấy đã khiến xe và người thành một khối thống nhất với sức mạnh kì diệu hăm hở tiến ra chiến trường.

Bài thơ đã khắc họa hình ảnh người lính lái xe Trường Sơn qua những nét nghệ thuật đặc sắc. Giọng điệu sôi nổi, trẻ trung, hồn nhiên, tinh nghịch mà sâu sắc được tạo bởi những cấu trúc “không có… không phải vì… không có”, “không có… ừ thì… chưa cần”. Hình ảnh thơ độc đáo sáng tạo – hình ảnh xe không kính góp phần làm nổi bật hình ảnh người lính lái xe. Sự kết hợp giữa cảm hứng sử thi và bút pháp hiện thực tạo nên những vần thơ đầy chất hiện thực mà giàu chất triết lí. Cùng với “Những ngôi sao xa xôi” – Lê Minh Khuê, “Mảnh trăng cuối rừng” – Nguyễn Minh Châu, “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” đã góp thêm một nét độc đáo về vẻ đẹp tuổi trẻ Việt Nam trong những năm chống Mĩ cứu nước.

Với thể thơ tự do, giọng điệu sôi nổi, bài thơ đã làm nổi bật vẻ đẹp của người lính lái xe Trường Sơn thời chống Mĩ cứu nước. Qua đó bồi dưỡng mỗi người tinh thần lạc quan, dũng cảm và ý chí chiến đấu vượt lên mọi gian khổ, khó khăn.

Vanhoctre soạn

Tags
Show More

Related Articles

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Close